Trong Thành Hoàng Đế (Bình Định) có 2 lăng mộ cổ, xung quanh lăng mộ là những giai thoại cảm động về vị tướng trung kiên.
Thành Hoàng Đế - Một địa điểm đa tầng văn hóa
Thành Hoàng Đế tọa lạc tại xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, Bình Định cách thành phố Quy Nhơn 27 km về hướng Tây Bắc.
Trên cùng một địa điểm, lần lượt hiện diện hai tòa thành hai vương triều của hai tộc người cách nhau hơn 300 năm, với hai tên gọi: Đồ Bàn (thời Champa), Hoàng Đế (thời Tây Sơn), cùng giữ vai trò kinh đô trong mỗi giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên, nguồn sử liệu về hai tòa thành, về hai kinh đô này lại quá ít.
Theo tài liệu từ Bảo tàng Bình Định, Cuối thế kỷ X, đầu thế kỷ XI khi dời đô từ Đồng Dương (Quảng Nam) về phía Nam, vương triều Champa đã quyết định chọn Đồ Bàn (nay thuộc địa bàn xã Nhơn Hậu và phường Đập Đá, thị xã An Nhơn) làm kinh đô mới, do Chiêm vương Ngô Nhật Hoan xây dựng. Văn bia Champa gọi là kinh đô Vijaya, sử Việt thời Lê gọi là thành Chà Bàn, còn sử liệu sau này gọi là thành Đồ Bàn.
Từ đó đến cuối thế kỷ , thành Đồ Bàn trở thành trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa, tôn giáo, kinh tế phồn thịnh của vương quốc Champa.
Năm 1471, sau khi vua Lê Thánh Tông đem quân chinh phục Champa, đã sáp nhập vùng đất Bình Định vào lãnh thổ của Đại Việt. Lúc này, thành Đồ Bàn không còn giữ được vai trò là kinh đô của vương quốc Champa.
Đến thế kỷ 18, khi cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn nổ ra, thành Đồ Bàn xưa được Nguyễn Nhạc chọn làm đại bản doanh. Sau đó, tại tòa thành này, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Thái Đức. Từ đây, thành Đồ Bàn chính thức mang tên thành Hoàng Đế và trở thành kinh đô của chính quyền Trung ương Hoàng Đế Thái Đức – Nguyễn Nhạc.
Năm 1802, triều đại Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Ánh lên ngôi, đặt niên hiệu là Gia Long, đóng đô ở Phú Xuân (Huế). Năm 1805, nhà Nguyễn cho lập lăng Võ Tánh ngay trên nền điện Bát Giác của thành Hoàng Đế và dùng lầu Bát Giác làm nơi hương khói gọi là Bát Giác lầu.
Đến năm 18, nhà Nguyễn cho triệt hạ hết các cung điện cũ của thành Hoàng Đế, dỡ đá ong của thành cũ mang đi xây thành mới, trừ lầu Bát Giác được sửa sang lại làm Đền Song Trung thờ Võ Tánh và Ngô Tùng Châu (sau này còn có tên gọi là Đền Chiêu Trung).
Địa thế
Theo sách "Đồ Bàn Ký" của Nguyễn Văn Hiển, thành Đồ Bàn được xây dựng vào trung tâm của nước, tựa vào thế vững của núi Long Cốt, non xanh bày hàng trước mặt, nước biếc uốn réo xung quanh… Bên hữu lấy núi Phong làm lũy, bên tả lấy bể làm hào; núi Cù Mông như rồng cuộn khúc ở phía trước; bến Thạch Tân như cọp hùng cứ ở mặt sau, quả là nơi hiểm trở thiên nhiên.
Với chu vi 7.400m, thành Hoàng Đế được xem là có quy mô lớn nhất trong hệ thống thành cổ Việt Nam còn đến nay. Nơi này được coi là "thắng địa", có vị trí cao thoáng, lấy núi Mò O làm tiền án phía Đông, núi Tam Sơn làm lá chắn phía Nam, phía Tây là những dải đồi thấp nối tiếp nhau trải dài tạo tấm lá chắn giăng trước lũy.
Ba mặt thành, phía xa là các dòng sông uốn lượn như hào tự nhiên che chắn. Thành được xây dựng trên thế đất hội tụ núi sông liền kề, liên kết điệp trùng, vừa có thế công vừa có thế thủ.
Thành Hoàng Đế nguyên là một tổng thể kiến trúc hình chữ nhật, gồm ba vòng thành: Thành Ngoại, Thành Nội và Tử Cấm Thành.
Trong đó thành Ngoại có chu vi 7400 m, hiện vẫn còn dấu tích của tường thành cao từ 3-6 m, trên bờ mặt thành phía Nam còn đang lưu giữ hai thanh đá cắm thẳng đứng cao 3 m.
Thành Nội còn được gọi là Hoàng Thành, hình chữ nhật với kích thước chu vi 1600 m, dài 430 m, rộng 370 m, thành có 3 cửa theo 3 hướng Nam, Đông, Tây, cửa Nam là cửa chính gọi là cửa Tiền. Hiện nay, 2 tượng voi bằng đá trước cửa Tiền vẫn còn đặt ở đó.
Tử Cấm Thành nằm ở trung tâm Thành Hoàng Đế, là vòng thành trong cùng cũng có thiết kế hình chữ nhật với chu vi 600 m, tường thành cũng được làm bằng đá ong bao quanh toàn bộ khu vực Tử Cấm Thành.
Cổng chính Tử Cấm Thành được xây dựng với kiến trúc vô cùng độc đáo. Cổng thành có 1 cửa chính và 2 cửa phụ theo kiểu hình chữ nhật. Ở 4 trụ cổng đều có các chữ hán và trên chóp của mỗi trụ đều đặt 1 búp sen. Chính giữa cổng chính có đặt một vòng âm dương trên chóp.
Đi qua cổng thành là một cột cờ cao chừng 10m, nằm ở trung tâm của khoảng sân, kèm theo đó là những tượng lân bằng đá mặt hướng về phía lầu Bát Giác.
Lối vào thành có hai chú voi bằng đá rêu phong đứng cách nhau hơn 20m, một hướng về phía đông, một hướng về phía tây. Đó là dấu tích thành Đồ Bàn của vương quốc Chămpa được vua Thái Đức Nguyễn Nhạc giữ lại khi xây dựng thành.
Vào đến khu vực Tử Cấm Thành, du khách sẽ có dịp chiêm ngưỡng một số di tích còn sót lại cho đến ngày nay như lầu Bát Giác, hòn Giả Sơn…
Đường đi vào lầu Bát Giác là một lối nhỏ, 2 bên thành lan can đặt rất nhiều chậu hoa nhiều màu sắc. Lầu có 3 tầng, bên trong, các hiện vật như văn bia bằng chữ Hán, các tấm ván gỗ bên trên có điêu khắc chữ hán đặt ở các góc tường và cột, với lối kiến trúc xưa được mô phỏng một cách rõ nét của nơi đặt áng thờ xưa. Đằng sau của khu vực lầu là lăng mộ của tướng Võ Tánh được nhà Nguyễn cho xây dựng.
Phân bố đăng đối hai bên lầu Bát Giác là hai hồ hình bán nguyệt đã được nạo vét, trả lại nguyên vẹn hình dạng một hồ tắm xưa với đường kính dài 17m, sâu 1,6m. Vách hồ là những tảng đá ong nâu xếp chồng lên nhau, được kết dính bằng đất sét hết sức khéo léo và đẹp mắt.
Đặc biệt, trên vách hồ có gắn những khối san hô trắng cỡ bằng bàn tay và một số bệ đá. Đáy hồ phẳng, được lèn chặt bằng gạch, sau đó nén một lớp đất sét. Hai cạnh hồ khép góc có bậc cấp thoai thoải dẫn xuống hồ.
Từ những chứng cứ khoa học, các nhà khảo cổ nghiêng về giả thuyết hồ có từ thời xây thành Đồ Bàn, được vua Chiêm Thành Chế Mân xây tặng công chúa Huyền Trân như một món quà tình yêu.
Cách hồ bán nguyệt khoảng 50m là một giếng cổ hình lá đề. Thành giếng được xây bằng đá ong và đất sét. Có thể nước hồ tắm được lấy từ giếng này. Trải qua thời gian, giếng nước xưa giờ đây đã bị lấp bằng, chỉ còn là một hồ trũng. Ở góc thành còn có một giếng cổ hình vuông, lát đá ong mà nước đến bây giờ vẫn trong xanh dù cho thời gian, cây cỏ vô tình che lấp.
Tử Cấm Thành luôn rợp bóng cây xanh rất thơ mộng. Thấp thoáng sau tán cây cổ thụ là ngọn tháp Cánh Tiên từ thời Chămpa nghiêng mình e ấp đẹp tựa tranh vẽ.
Trải qua sự tàn phá của thời gian, những cây cổ thụ với đủ loại: me, sung, bồ đề, khế…vẫn hiên ngang đứng đó như những chàng lính ngự lâm oai dũng bảo vệ cấm cung.
Câu chuyện về vị võ tướng trung tiết anh hùng
Sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ năm 1802, cấu trúc thành Hoàng Đế đã bị nhà Nguyễn tàn phá. Năm 1805 nhà Nguyễn cho lập lăng Võ Tánh ngay trên nền điện Bát Giác của thành Hoàng đế và dùng lầu Bác Giác làm nơi thờ tự, hương khói.
Mãi đến năm 18, nhà Nguyễn cho sang bằng tất cả các cung điện cũ của thành Hoàng Đế, sau đó lấy đi những viên đá ong đi xây thành mới, chỉ để lại khu lầu Bát Giác và sửa sang lại làm đền thờ Song Trung thờ Võ Tánh và Ngô Tùng Châu.
Lăng mộ của Võ Tánh đặt sau một án hương lớn, mộ có hình tròn bên trên có đắp biểu tượng một con dơi. Nằm kế bên là phần mộ của Ngô Tùng Châu, hài cốt của ông đã được cải táng về huyện Phù Cát, Bình Định (ảnh: Cổng thông tin điện tử Bình Định).
Nhắc đến lăng mộ của danh tướng Võ Tánh ta lại nhớ đến câu chuyện cảm động lòng người. Quyết một lòng giữ khí tiết để giữ thành và toàn mạng cho các binh sĩ được xem là một trong những danh tướng nổi tiếng đến nay vẫn còn lưu truyền.
Theo giai thoại, khi vua Quang Trung mất, vua Cảnh Thịnh lên nối ngôi, nhưng không thể ổn định được nội bộ Tây Sơn vốn đã chia rẽ.
Năm 1793, Nguyễn Phúc Ánh cho quân đánh thành Quy Nhơn của Tây Sơn Vương Nguyễn Nhạc. Được kết nối 3 tháng, không có cách nào khác, Tây Sơn Vương đành phải cầu viện vua Cảnh Thịnh dù quan hệ hai bên lúc đó chẳng tốt đẹp gì.
Vua Cảnh Thịnh sai Ngô Văn Sở và Phạm Công Hưng đến giải vây thành Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Ánh phải cho quân rút về Phú Yên.
Quân Phạm Công Hưng chiếm cứ thành Quy Nhơn, ngang nhiên kê biên, cướp bóc tài sản. Nguyễn Nhạc thấy vậy uất ức thổ huyết rồi qua đời.
Năm 1799, Nguyễn Phúc Ánh cho quân đánh thành Quy Nhơn lần thứ 2. Thành Quy Nhơn bị vây khốn, nhưng đây là thành thủ khó công, nên quân Nguyễn đánh mãi cũng không thành.
Nhà Tây Sơn cử hai tướng là Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng (một số sách chép Vũ Văn Dũng) đến giải vây thành Quy Nhơn.
Năm 1800, Trần Quang Diệu sau khi dẹp hết bọn thần trong triều đình cùng Vũ Văn Dũng tiến quân trở lại Bình Định. Quân chia làm thủy bộ, Trần Quang Diệu chỉ huy quân 5 vạn, Võ Văn Dũng chỉ huy thủy quân 2,4 vạn.
Trần Quang Diệu cho quân đánh thành Bình Định. Võ Tánh chống quân nhưng vì yếu hơn nên cho quân vào thành cố thủ.
Thành Bình Định dễ thủ khó thành công, Trần Quang Diệu không cho quân đánh thành mà bên ngoài chờ quân Nguyễn hết lương thì phải đầu hàng. Ông cho những tấm thẻ dài với chu vi hơn 4.000 trượng bao bọc thành. Vũ Văn Dũng cũng cho thủy quân trấn giữ tại đầm Thị Nại. Trong khi đó, Võ Tánh cho người về Gia Định báo tin.
Nguyễn Phúc Ánh nhận tin tức quyết định đem quân đến thành Bình Định. Quân Nguyễn quyết định đánh thủy quân Tây Sơn ở đầm Thị Nại trước. Vũ Văn Dũng giữ Thị Nại không được, thua trận cùng Trần Quang Diệu ngăn cản quân Nguyễn giải vây.
Quân Tây Sơn từ trên cao đặt súng bắn trọng lực ngăn cản quân Nguyễn, dù Nguyễn Phúc Ánh đã cố gắng vài lần cho quân tiến lên nhưng lần nào cũng bị đẩy lui.
Thành Bình Định bị bao vây, Trần Quang Diệu cũng muốn kết thúc nhanh, vây thành rất chặt, cắt mọi đường tiếp thị lương thực, tình thế trong thành hết sức nguy hiểm, binh sĩ hết lương không còn sức lực để gắn thêm. nữa.
Nguyễn Phúc Ánh cho người bí mật thành lệnh cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tìm cách bỏ chạy ra hướng biển để đội bên ngoài đón.
Võ Tánh viết thư trả lời rằng: “Làm tướng mà không giữ được thì phải chết với thành, đó có thể hiển thị tự nhiên, hồ sơ cái chết của thần sẽ đóng góp phần thống nhất sơn hà, vậy mà không có gì không thể cười được. Thánh thượng là thiên tử, không thể vì tình riêng mà quên đi đại cuộc. Xin thánh thượng, hãy chuyển hướng đại binh ra Bắc đánh chiếm Phú Xuân (Huế)”.
Không có cách nào khác, Nguyễn Phúc Ánh giao cho Trần Quang Thành ở lại kiềm chân Trần Quang Diệu với hy vọng mong manh sau khi sử dụng xong Phú Xuân sẽ quay lại cứu Võ Tánh.
Năm 1801, thủy binh quân Nguyễn rời Thị Nại tiến đánh Phú Xuân.
Cuộc bao vây 14 tháng trời của Trần Quang Diệu khiến quân của Võ Tánh không còn cầm cự nổi. Trong “Tây Sơn bi hùng truyện” mô tả quân trong thành bắt được một người lính ra khỏi trại cướp của dân. Võ Tánh nói rằng: “Chúng ta còn giữ được thành đến ngày hôm nay là lòng dân vẫn ủng hộ, nếu lấy lương thực của dân thì quân ta như phường cướp hay sao? Mang ra chém!”
Tên lính bẩm rằng: “Thưa tướng quân, quân lương hết sạch mấy ngày nay, quân ta phải làm thịt ngựa mà ăn. Nay ngựa đã hết chúng tôi đói quá nên mới vào nhà dân tìm cái ăn lót. Xin tướng quân thương tình tha mạng.”
Võ Tánh nghe xong nói đó là tội của mình rồi tha cho người lính này. Lúc này quân đội đã kiệt sức. Võ Tánh ứa nước mắt nói rằng: “Các ngươi không lo, ta đã có kế hoạch, ngày mai các người sẽ được cơm mà ăn”.
Sau đó Võ Tánh viết lá thư tuyệt mệnh gửi lại cho tướng quân Trần Quang Diệu: “Phận làm tướng, ta không thể giữ được, hiển nhiên phải chết theo thành. Chỉ một mong muốn sau cùng, anh em binh sĩ không có tội gì cả, xin đừng làm hại, cũng như ngày trước khi vào thành Quy Nhơn, quân Nguyễn đã không giết hại những binh sĩ Tây Sơn”.
Võ Tánh lệnh Võ Văn Lượng ra ngoài thành giương cờ trắng đầu hàng, sau đó ông lên lầu Bát Giác phóng lửa tự thiêu.
Võ Văn Lượng ra ngoài kéo cờ trắng đầu hàng, trở vào thành thấy Võ Tánh tự thiêu liền chạy đến hô một tiếng rồi nhảy vào lửa chết cùng chủ tướng. Ngô Tùng Châu cũng uống thuốc độc tự sát.
Trần Quang Diệu vào thành, nhận thư của Võ Tánh, đọc xong Trần Quang Diệu sai người phát lương cho hàng binh, đồng thời chôn cất tử tế cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu.
Sau lễ mai táng, Trần Quang Diệu cho tập hợp hơn 1 vạn quân ở bãi cát bên cửa Thị Nại, quân Nguyễn nhiều người khóc vì nghĩ rằng sẽ bị giết rồi ném xác xuống biển.
Trần Quang Diệu nói: “Các ngươi may mắn có được một chủ tướng mà ai cũng kính phục. Nay theo mong muốn tướng Võ Tánh. Các người có thể ở lại thành Quy Nhơn, trở lại quê hương làm ăn, thậm chí có thể quay trở lại với Nguyễn Ánh chống lại ta. Ta đảm bảo mạng cho các ngươi rời khỏi thành”.
Quân lính của Võ Tánh quỳ gối nói: “Xin đáp ơn tướng quân mở lượng hiếu sinh”
Khung cảnh thật trang nghiêm, tuy nhiên không ai muốn gia nhập quân đội Tây Sơn, tất cả đều tự ra đi.
Nhiều người hỏi Trần Quang Diệu sao không giết họ, vì thả như thế họ có thể trở lại gia nhập quân Nguyễn đánh Tây Sơn.
Trần Quang Diệu trả lời rằng: “Họ không theo ta là nhà Tây Sơn, ta đã mất lòng dân. Nếu ta ra tay giết họ sẽ càng mất lòng dân hơn. Được thua là ở lòng trời, sinh linh có tội gì mà tôi giết hại ”.
Tướng quân Trần Quang Diệu biết rõ, Tây Sơn càng ngày càng suy, đánh mất lòng dân, nhưng ông vẫn phục vụ cho nhà Tây Sơn đến cùng vì tấm lòng trung nghĩa.
Các binh sĩ khi rời đi hầu như đều trở lại bản quán sinh sống, không ai gia nhập quân Nguyễn chống lại Tây Sơn.
Võ Tánh và Trần Quang Diệu dù phò tá cho các chúa khác nhau, nhưng đều là những bậc trung nghĩa.
Sự hi sinh của tướng Võ Tánh vì tính mạng của nhiều binh sĩ xứng đáng là danh xưng của con nhà võ và “Gia Định tam hùng”
Trước cái chết của Võ Tánh người dân Bình Định cũng tỏ lòng thán phục và lưu truyền câu hát: “Ngó lên ngọn tháp Cánh Tiên/ Cảm thương quan Hậu thủ thiềng (thành) ba năm”..