Ngày 9/6, tại Hà Nội, Hội thảo phổ biến cam kết quốc gia tham gia chương trình Kế hoạch hóa gia đình toàn cầu đến năm 2030 (FP2030) đã được Cục Dân số (Bộ Y tế) phối hợp với Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) tổ chức. Sự kiện nhằm thúc đẩy quyền của mọi người dân trong việc tiếp cận dịch vụ sức khỏe sinh sản an toàn, bình đẳng và dựa trên lựa chọn cá nhân, tự nguyện.
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên cho biết, mỗi năm, dân số Việt Nam tăng thêm gần 1 triệu người, số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (-49 tuổi) hiện vào khoảng hơn 25 triệu người và tiếp tục có xu hướng gia tăng. Do đó, nhu cầu sử dụng các phương tiện tránh thai cũng ngày một tăng. Mặc dù chất lượng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) từng bước được cải thiện, nhưng thực tế vẫn còn tồn tại nhiều bất cập.
Dẫn số liệu từ cuộc điều tra các mục tiêu phát triển bền vững về trẻ em và phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2020-2021, Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên nhấn mạnh: Tổng nhu cầu chưa được đáp ứng về kế hoạch hóa gia đình tiếp tục tăng, từ 6,1% (năm 2014) lên 10,2% (năm 2021) ở nhóm phụ nữ đã kết hôn hoặc sống chung như vợ chồng. Đặc biệt, tỷ lệ này ở nhóm phụ nữ chưa kết hôn hoặc không sống chung như vợ chồng nhưng có quan hệ tình dục lên tới 40,7%.
Ngoài ra, tỉ suất sinh con ở tuổi vị thành niên (-19 tuổi) tại Việt Nam còn cao, trung bình 42 trẻ sinh ra sống/1.000 phụ nữ, trong đó cao nhất là khu vực Trung du và miền núi phía Bắc (1), Tây Nguyên (76) – những nơi tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số. Tình trạng này đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục giới tính và mở rộng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho thanh thiếu niên.
Theo ông Đỗ Xuân Tuyên, việc tiếp cận thuận tiện các dịch vụ KHHGĐ và sức khỏe sinh sản đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em, giảm thiểu tử vong mẹ và tình trạng mang thai ngoài ý muốn. Điều này cũng phù hợp với định hướng của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong công tác dân số thời kỳ mới, thể hiện rõ qua Nghị quyết số 21-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, trong đó đặt mục tiêu: "Mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đều được tiếp cận thuận tiện với các biện pháp tránh thai hiện đại; giảm 2/3 số vị thành niên và thanh niên có thai ngoài ý muốn."
Phát biểu tại hội thảo, ông Matt Jackson – Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam – đánh giá cao nỗ lực và cam kết của Việt Nam khi tham gia FP2030. Ông khẳng định: “Lễ công bố Cam kết quốc gia hôm nay thể hiện một thông điệp mạnh mẽ rằng: Sức khỏe sinh sản và quyền được lựa chọn là trọng tâm trong tầm nhìn phát triển công bằng, bao trùm và bền vững của Việt Nam.” Ông cũng cho biết, các bằng chứng quốc tế cho thấy nếu đáp ứng đầy đủ nhu cầu kế hoạch hóa gia đình, tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn sẽ giảm 71%, tỷ lệ phá thai giảm 70% và tử vong mẹ giảm tương ứng.
Bà Sumita Banerjee, Giám đốc khu vực châu Á – Thái Bình Dương của FP2030 cũng chia sẻ: Cam kết FP2030 của Việt Nam không chỉ là cam kết chính trị mạnh mẽ mà còn là hành động thiết thực thể hiện vai trò tiên phong trong khu vực trong việc đặt con người – đặc biệt là thanh thiếu niên – vào trung tâm phát triển quốc gia.
Tại hội thảo, các đại biểu nhấn mạnh, đầu tư vào KHHGĐ không chỉ giúp giảm chi phí y tế mà còn mang lại lợi ích kinh tế rõ rệt. Theo UNFPA, cứ 1 USD đầu tư cho KHHGĐ sẽ thu về tới 8,4 USD lợi ích kinh tế.
Cam kết FP2030 của Việt Nam gồm nhiều nội dung trọng tâm, trong đó có: Tăng cường tiếp cận các biện pháp tránh thai hiện đại; giảm có thai ngoài ý muốn ở thanh thiếu niên và vị thành niên; nâng cao chất lượng dịch vụ KHHGĐ tại các tuyến xã và huyện; mở rộng cung cấp biện pháp tránh thai phi lâm sàng; đẩy mạnh truyền thông, giáo dục, vận động để thay đổi hành vi.
Bộ Y tế khẳng định sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các địa phương, tổ chức quốc tế và các bên liên quan để thực hiện hiệu quả cam kết FP2030, đảm bảo mọi cá nhân, đặc biệt là nhóm yếu thế, đều có thể tiếp cận đầy đủ, bình đẳng các dịch vụ KHHGĐ và sức khỏe sinh sản chất lượng từ nay đến năm 2030.