Nghị quyết số 04/20/NQ-HĐTP ngày 12/6/20 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi liên quan đến khai thác, mua bán, vận chuyển trái phép thủy sản. Báo Công lý xin giới thiệu một số nội dung cơ bản của Nghị quyết.
Nghị quyết gồm 11 Điều với những với những nội dung cơ bản sau:
1. Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1 Nghị quyết)
Nghị quyết hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các nhóm hành vi liên quan đến khai thác, mua bán, vận chuyển trái phép thủy sản, bao gồm:
- Hành vi xuất cảnh, nhập cảnh để khai thác thủy sản trái phép quy định tại các Điều 347, 348 và 349 của Bộ luật Hình sự;
- Hành vi liên quan đến bảo vệ nguồn lợi thủy sản quy định tại Điều 2 và Điều 4 của Bộ luật Hình sự;
- Hành vi cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông để khai thác thủy sản trái phép quy định tại Điều 287 của Bộ luật Hình sự;
- Hành vi xâm phạm trong lĩnh vực thương mại thủy sản quy định tại các Điều 188, 189, 198 và 341 của Bộ luật Hình sự.
Theo phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết thì các hành vi vi phạm liên quan đến khai thác, mua bán, vận chuyển trái phép thủy sản có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với 10 tội danh được Bộ luật Hình sự quy định.
2. Về một số từ ngữ (Điều 2 Nghị quyết)
Để thống nhất cách hiểu về một số từ ngữ được sử dụng trong Nghị quyết, Điều 2 của Nghị quyết giải thích 03 thuật ngữ là “khai thác thủy sản trái phép”, “tàu cá”, “ngoài vùng biển Việt Nam”.
3. Về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi xuất cảnh đi khai thác thủy sản trái phép ở ngoài vùng biển Việt Nam (Điều 3)
Điều 3 Nghị quyết hướng dẫn người chỉ huy cao nhất trên tàu cá (thuyền trưởng hoặc chủ tàu trong trường hợp chủ tàu đồng thời là thuyền trưởng) bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về xuất cảnh quy định tại Điều 347 của Bộ luật Hình sự khi thuộc một trong hai trường hợp sau đây: (1) Không làm thủ tục xuất cảnh cho tàu cá, thành viên tàu cá và ngư dân theo quy định; (2) Có làm thủ tục xuất cảnh nhưng sau khi xuất cảnh đã tẩy, xóa số đăng ký tàu cá hoặc viết số đăng ký tàu cá không đúng với thông tin do cơ quan có thẩm quyền cấp để thành viên tàu cá, ngư dân khai thác thủy sản trái phép ở ngoài vùng biển Việt Nam.
4. Về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh trái phép để đưa tàu cá, ngư dân khai thác thủy sản trái phép ở ngoài vùng biển Việt Nam (Điều 4)
Để xử lý nghiêm các vụ, việc môi giới, móc nối đưa tàu cá, ngư dân Việt Nam đi khai thác thủy sản trái phép ở ngoài vùng biển Việt Nam, Nghị quyết hướng dẫn người tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh trái phép để đưa tàu cá, ngư dân khai thác thủy sản trái phép ở ngoài vùng biển Việt Nam thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh trái phép quy định tại Điều 348 của Bộ luật Hình sự trong các trường hợp sau đây: (1) Không làm thủ tục về xuất cảnh, nhập cảnh theo quy định của pháp luật; (2) Làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh nhưng khai thác thủy sản không đúng khu vực được cơ quan có thẩm quyền cấp phép, chấp thuận hoặc giấy phép khai thác hết hạn. Trường hợp tổ chức, môi giới cho người khác đưa tàu cá, ngư dân khai thác thủy sản trái phép ở ngoài vùng biển của Việt Nam mà ngư dân, thành viên tàu cá trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép theo quy định tại Điều 349 của Bộ luật Hình sự.
Bên cạnh đó, Nghị quyết còn hướng dẫn cụ thể về hành vi tổ chức cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh; môi giới tổ chức cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh để đưa tàu cá, ngư dân khai thác thủy sản ở ngoài vùng biển của Việt Nam.
5. Về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi khai thác thủy sản vi phạm quy định về bảo vệ nguồn lợi thủy sản (Điều 5)
Điều 5 Nghị quyết hướng dẫn áp dụng 05 tình tiết định khung của tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản quy định tại khoản 1 Điều 2 của Bộ luật Hình sự, bao gồm: “phương tiện, ngư cụ bị cấm”; “khai thác thủy sản trong khu vực cấm”; “khai thác thủy sản trong khu vực cấm có thời hạn”; “khai thác loài thủy sản bị cấm khai thác”; “phá hoại nơi cư ngụ của loài thủy sản”.
Việc hướng dẫn các tình tiết nêu trên giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng thống nhất áp dụng pháp luật trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm quy định về bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
6. Về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi khai thác thủy sản nguy cấp, quý, hiếm (Điều 6)
Để bảo vệ nguồn lợi thủy sản nguy cấp, quý, hiếm, Nghị quyết hướng dẫn Người nào khai thác thủy sản thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ theo quy định tại Điều 37 của Luật Đa dạng sinh học hoặc Phụ lục I Công ước Quốc tế về buôn bán các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm quy định tại Điều 4 của Bộ luật Hình sự nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
7. Về truy cứu trách nhiệm hình sự người nước ngoài về hành vi đưa tàu cá khai thác thủy sản trái phép tại vùng biển Việt Nam (Điều 7)
Nghị quyết hướng dẫn người nước ngoài sử dụng tàu cá đi vào vùng biển Việt Nam để khai thác thủy sản mà không làm thủ tục nhập cảnh theo quy định thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về nhập cảnh theo Điều 347 Bộ luật Hình sự. Trường hợp họ vào vùng biển của Việt Nam hợp pháp nhưng khai thác thủy sản trái phép hoặc có hành vi vi phạm pháp luật hình sự khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tương ứng của Bộ luật Hình sự và điều ước quốc tế của Việt Nam là thành viên.
Hướng dẫn này nhằm bảo đảm tính công bằng, phù hợp với việc xử lý trách nhiệm hình sự về hành vi khai thác thủy sản trái phép như đối với công dân của Việt Nam. Mặt khác, quy định này nhằm thực hiện một trong những khuyến nghị của EC đối với Việt Nam “Tăng cường truy xuất nguồn gốc sản phẩm thủy sản và thực hiện tất cả các bước cần thiết, phù hợp với luật pháp quốc tế, để ngăn chặn các sản phẩm thủy sản đánh bắt bất hợp pháp được buôn bán và nhập khẩu vào lãnh thổ”.
8. Về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thiết bị giám sát hành trình tàu cá làm cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 8)
Thời gian gần đây, nhiều tàu cá và ngư dân cố tình tháo gỡ, tắt tín hiệu thiết bị giám sát hành trình nhằm trốn tránh sự theo dõi của các ngành chức năng để thực hiện các hành vi khai thác thủy sản trái phép. Việc này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nỗ lực của Chính phủ trong việc thực hiện các giải pháp tháo gỡ “Thẻ vàng” của Ủy ban Châu Âu. Do đó, để ngăn chặn tình trạng nêu trên, Điều 8 Nghị quyết hướng dẫn người nào thực hiện một trong các hành vi tháo gỡ, tàng trữ, vận chuyển từ 02 thiết bị giám sát hành trình của tàu cá khác trở lên; làm vô hiệu hóa máy định vị vệ tinh hoặc thiết bị giám sát hành trình tàu cá; làm tê liệt, gián đoạn, ngưng trệ hoạt động, ngăn chặn trái phép việc truyền dữ liệu từ thiết bị giám sát hành trình tàu cá về hệ thống giám sát tàu cá theo quy định thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử quy định tại Điều 287 của Bộ luật Hình sự.
9. Về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức để khai thác, mua bán, vận chuyển trái phép thủy sản (Điều 9)
Người nào vi phạm quy định về xuất cảnh hoặc tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh trái phép quy định tại Điều 347 và Điều 348 của Bộ luật Hình sự mà còn làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả để khai thác, mua bán, vận chuyển trái phép thủy sản thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 347 hoặc Điều 348 và Điều 341 của Bộ luật Hình sự.
10. Về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép thủy sản, dùng thủ đoạn gian dối mua, bán thủy sản (Điều 10)
Nghị quyết hướng dẫn người nào buôn bán thủy sản qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại, mà không có giấy phép xuất nhập khẩu thủy sản hoặc không đúng với nội dung giấy phép thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu quy định tại Điều 188 của Bộ luật Hình sự.
Người nào vận chuyển thủy sản qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc vào vùng biển Việt Nam nhưng không có giấy phép, không đúng với nội dung giấy phép, không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc xuất xứ thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới quy định tại Điều 189 của Bộ luật Hình sự.
Người nào dùng thủ đoạn gian dối như hợp thức hóa hồ sơ, chứng từ, nguồn gốc thủy sản khai thác trái phép để mua, bán thì bị truy cứu trách nhiệm về tội lừa dối khách hàng theo quy định tại Điều 198 của Bộ luật Hình sự.
11. Về hiệu lực thi hành (Điều 11)
Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/8/20.
Ngày 10/4/20, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định và phát triển bền vững ngành thủy sản.
Ban Cán sự đảng TANDTC được đề nghị lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương có liên quan trong tổ chức và thực hiện Chỉ thị để "kịp thời điều tra, truy tố, xét xử nghiêm các vụ, việc môi giới, móc nối đưa tàu cá, ngư dân Việt Nam đi khai thác bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài, hợp thức hóa hồ sơ đối với các lô hàng xuất khẩu"; "khẩn trương rà soát, hoàn thiện Chính sách pháp luật, bổ sung chế tài xử lý vi phạm".
Cùng với đó, tại Nghị quyết số 52/NQ-CP ngày 22/4/20 của Chính phủ "kiến nghị TANDTC rà soát, hướng dẫn áp dụng thống nhất quy định của Bộ luật Hình sự trong xử lý hành vi liên quan đến khai thác thủy sản bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài".
Thực hiện quy định tại Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành Nghị quyết số 04/20/NQ-HĐTP, "Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi liên quan đến khai thác, mua bán, vận chuyển trái phép thủy sản".
Nghị quyết này là căn cứ pháp lý quan trọng để các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong hệ thống chính trị ở Trung ương và 28 tỉnh, thành phố ven biển tuyên truyền, phổ biến đến các tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động khai thác, mua bán, vận chuyển thủy sản để phòng chống việc khai thác thủy sản bất hợp pháp không báo cáo, không theo quy định.
Đây cũng là cơ sở pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng xử lý nghiêm các vụ, việc môi giới, móc nối đưa tàu cá, ngư dân Việt Nam đi khai thác bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài, hợp thức hóa hồ sơ đối với các lô hàng thủy sản. Nghị quyết số 04/20 đã được Hội đồng Thẩm phán TANDTC thông qua ngày 12/6/20 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/8/20.