Truy tố 33 bị can vụ khai thác trái phép mỏ than ở Thái Nguyên
Viện KSNDTC vừa ban hành cáo trạng truy tố đối với 33 bị can trong vụ “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên, Mua bán trái phép vật liệu nổ, Sử dụng trái phép vật liệu nổ, Mua bán trái phép hóa đơn, Lợi dụng chức vụ trong khi thi hành công vụ, Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, xảy ra tại Mỏ than Minh Tiến (Thái Nguyên).
Viện KSNDTC phân công Viện KSND tỉnh Thái Nguyên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án.
Trong vụ án này, Viện KSNDTC xác định bị can Châu Thị Mỹ Linh (Tổng giám đốc Công ty Yên Phước) là người chủ mưu thực hiện các hành vi.
Cụ thể, bị can Mỹ Linh đã chỉ đạo Ngụy Quang Thuyên (Trợ lý Tổng giám đốc) khai thác, thỏa thuận, thống nhất, ký hợp đồng dịch vụ, chuyển nhượng trái pháp luật để Công ty Đông Bắc Hải Dương khai thác trái phép than tại Mỏ than Minh Tiến, với tổng khối lượng hơn 3 triệu tấn than và khoáng sản đi kèm, gấp 23,4 lần tổng sản lượng được cấp phép của thời hạn 18 năm.
Ngoài ra, Mỹ Linh còn chỉ đạo nhân viên hợp thức hồ sơ, tài liệu, hóa đơn, chứng từ với các cơ quan chức năng để che giấu hành vi khai thác than trái phép cùng khoáng sản đi kèm.
Bị can Linh cũng đồng ý với việc bán trái phép gần 3.000 kg thuốc nổ và gần 11.000 kíp cho Đỗ Văn Vĩnh và Lương Văn Tiến để khai thác trái phép tại Khu A, thu lợi bất chính hơn 2 tỉ đồng.
Trong vụ án này có 2 anh em Bùi Hữu Giang và Bùi Hữu Thanh cùng bị truy tố về tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên” và “Mua bán trái phép hóa đơn”. Hai anh em bị can bị xác định là người tích cực trong việc tham gia góp vốn, có vai trò chủ mưu trong việc bàn bạc, thống nhất việc khai thác trái phép hơn 3 triệu tấn than và khoáng sản đi kèm, vượt quá tổng sản lượng được cấp phép.
Theo cáo trạng, giá trị khoáng sản khai thác trái phép đã thanh toán giữa Công ty Đông Bắc Hải Dương và Công ty Yên Phước, tổng số hơn 1 triệu tấn than, hơn 419m3 khoáng sản đi kèm là hơn 145 tỉ đồng và giá trị hơn 1,5 triệu tấn than khai thác trái phép bị thu giữ; thu lợi bất chính hơn 213 tỉ đồng.
Ngoài ra, 2 bị can này còn mua 395 hóa đơn giá trị gia tăng của nhóm các Công ty tại Hải Phòng, Nam Định để hợp thức hóa đơn đầu vào cho số lượng than khai thác trái phép, than không có nguồn gốc.
Trong vụ án này, hàng loạt lãnh đạo, cán bộ Sở TN-MT tỉnh Thái Nguyên bị truy tố về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.
Cáo trạng của Viện KSNDTC nêu rõ Nguyễn Thế Giang là Phó giám đốc Sở TN-MT, trực tiếp phụ trách đoàn công tác về khoáng sản và môi trường. Giang là Trưởng đoàn kiểm tra đột xuất việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường và khoáng sản tại Công ty Yên Phước nhưng không trực tiếp tham gia Đoàn kiểm tra.
Bị can Giang ký văn bản gửi Công ty Yên Phước chỉ ghi nội dung kiểm tra việc chấp hành pháp luật về môi trường, không ghi nội dung kiểm tra về khoáng sản; không chỉ đạo, phân công cụ thể nhiệm vụ cho các thành viên trong Đoàn.
Quá trình kiểm tra, Nguyễn Thế Giang chỉ căn cứ vào báo cáo của Công ty Yên Phước xác định Công ty khai thác 5.000 tấn than, để đưa vào kết luận kiểm tra, không chỉ đạo Đoàn kiểm tra đo đạc, giám định sản lượng than thực tế và yêu cầu phía công ty cung cấp sổ sách, chứng từ để xác định sản lượng khoáng sản khai thác thực tế.
Kết quả điều tra đã phát hiện Công ty Yên Phước có 3 vi phạm là thất lạc mốc giới II; chưa cung cấp được bản đồ mặt cắt hiện trạng từ khi đi vào hoạt động cho tới thời điểm kiểm tra; chưa cung cấp đầy đủ văn bản, tài liệu, sổ sách để xác định sản lượng khoáng sản khai thác trên thực tế, thống kê, kiểm kê trữ lượng khoáng sản.
Theo quy định tại Điều 39, Khoản 3 Điều 50 Nghị định 33/2017/NĐ-CP ngày 3/4/2017 của Chính phủ thì các vi phạm này phải bị tiền phạt từ 90,5 triệu đồng đến 1 triệu đồng nhưng Nguyễn Thế Giang đã không đưa vào Kết luận kiểm tra.
Ngoài các hành vi nêu trên, với vai trò là Phó giám đốc Sở, trực tiếp phụ trách công tác quản lý về khoáng sản và môi trường, Nguyễn Thế Giang không đôn đốc Phòng Khoáng sản thực hiện kiểm tra, thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về lĩnh vực khoáng sản để làm tốt chức năng quản lý nhà nước về khoáng sản. Từ đó, không phát hiện được Công ty Yên Phước đã khai thác than không đúng với nội dung giấy phép.
33 bị can trong vụ án bị truy tố gồm: Châu Thị Mỹ Linh (SN 1970, ở tại phường Tân Sơn Nhất, quận 12, TP. Hồ Chí Minh- Giám đốc Công ty CP Yên Phước); Nguỵ Quang Thuyên (SN 1968, trú tại huyện Đại Từ, Thái Nguyên - nhân viên Công ty CP Yên Phước); Doãn Thị Định (SN 1987, trú tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên – nhân viên kế toán công ty CP Yên Phước); Đỗ Thị Luyến (SN 1996, nhân viên công ty CP Yên Phước); Bùi Hữu Thanh (SN 1989, Thành viên góp vốn điều hành công ty Đông Bắc Hải Dương); Bùi Hữu Giang (SN 1989, Thành viên góp vốn điều hành công ty Đông Bắc Hải Dương); Hà Anh Tuấn (SN1982, nguyên Giám đốc Công ty Đông Bắc Hải Dương; Ngô Đăng Hải (SN1972, Phó Giám đốc công ty Đông Bắc Hải Dương); Phạm Văn Thu (SN 1972, thành viên góp vốn Công ty Đông Bắc Hải Dương); Nguyễn Tuấn Anh (SN 1989, kinh doanh vận tải); Bùi Hữu Khoa (SN1983, quản lý khai thác than của Công ty Đông Bắc Hải Dương); Bùi Mạnh Cường (SN 1984, Giám đốc công ty Đông Bắc Hải Dương); Bùi Hữu Thương (SN 1984, quản lỹ bãi than tại Mỏ đá Núi Voi của công ty Đông Bắc Hải Dương); Phạm Ngọc Thanh (SN 1981, nhân viên công ty Đông Bắc Hải Dương); Đàm Hương Huệ (SN 1981, nguyên Giám đốc công ty TNHH Uyên Hiển); Nguỵ Văn Thuỷ (SN 1969, nhân viên công ty cổ phần Yên Phước); Bùi Minh Hợp (SN 1978, nguyên Giám đốc điều hành Mỏ than Minh Tiến, công ty Yên Phước); Nguyễn Văn Hoạt (SN 1978, nguyên chỉ huy nổ mìn Mỏ than Minh Tiến, công ty Yên Phước); Đỗ Văn Vĩnh (SN 1978, trú tại xã Na Mao, huyện Đại Từ, Thái Nguyên - lao động tự do); Lương Văn Tiến (SN 1986, trú tại xã Phục Linh, huyện Đại Từ, Thái Nguyên – lao động tự do); Lã Xuân Hữu (SN 1984, Giám đốc công ty TNHH in Quảng cáo và Thương mại Xuân Phúc); Trần Ngọc Hán (SN1990, Giám đốc công ty TNHH MTV thương mại Khoáng sản Thống nhất); Trần Thị Loan (SN 1987,trú tại phường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, TP Hải Phòng – lao động tự do); Nguyễn Thị Kim Thoa (SN 1988, kế toán Công ty công ty Đông Bắc Hải Dương); Lê Thị Hải Ninh (SN1985, kế toán công ty Đông Bắc Hải Dương); Lê Thị Thuỷ Tiên (SN 1985, kế toán Công ty TNHH MTV Khoáng sản Gia Bảo và công ty TNHH MTV thương mại Khoáng sản Nhật Minh); Nguyễn Ngô Quyết (SN 1974, nguyên Giám đốc Sở Công thương tỉnh Thái Nguyên); Nguyễn Văn Phong (SN 1960, nguyên Trưởng phòng Kỹ thuật an toàn môi trường, Sở Công Thương tỉnh Thái Nguyên); Đỗ Huy Cương (SN 1982, nguyên Trưởng phòng Kỹ thuật an toàn môi trường, Sở Công Thương tỉnh Thái Nguyên); Nguyễn Thanh Tuấn (SN 1966, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Nguyên); Nguyễn Thế Giang (SN 1974, nguyên Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Nguyên); Lại Trung Hiếu (SN 1975, Phó Trưởng phòng Khoáng sản, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Nguyên); Cao Sỹ Linh (SN 1975, chuyên viên Phòng Khoáng sản, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Nguyên).