Kinh tế

Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 20

Bảo Nam 22/02/20 - :19

Vẫn còn sớm để cho rằng năm 20 kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong số những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới, nhưng có cơ sở tin rằng kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực.

Phục hồi và khởi sắc

Theo dự báo của hầu hết các tổ chức nghiên cứu kinh tế toàn cầu, kinh tế thế giới năm 20 vẫn còn chịu nhiều thách thức và bất ổn. Ngoài căng thẳng địa chính trị, biến đổi khí hậu và thiên tai khiến bức tranh kinh tế thế giới dù có nhiều gam màu sáng hơn, nhưng vẫn chưa phục hồi như trước đại dịch COVID-19.Trong tình hình đó, Việt Nam trong năm mới vẫn phải lấy đầu tư công làm động lực tăng trưởng.

2xxx.jpg
Ảnh minh họa.

Báo cáo Triển vọng phát triển châu Á (ADO) của Ngân hàng Phát triển châu Á lưu ý rằng các nguyên nhân chính tác động đến nền kinh tế là suy thoái kinh tế toàn cầu, thắt chặt tiền tệ ở một số nước phát triển và sự gián đoạn, đứt gãy chuỗi cung ứng do căng thẳng địa chính trị gia tăng.

Đối với triển vọng kinh tế Việt Nam, ông Shantanu Chakraborty, Giám đốc Quốc gia ADB tại Việt Nam cho biết: "Môi trường bên ngoài yếu kém, bao gồm cả sự phục hồi chậm chạp ở Trung Quốc đã cản trở hoạt động sản xuất định hướng xuất khẩu, do đó làm thu hẹp sản xuất công nghiệp ở Việt Nam".

Tuy nhiên, theo ông, nền kinh tế Việt Nam vẫn kiên cường và sự phục hồi dự kiến sẽ khởi sắc trong thời gian tới nhờ tiêu dùng nội địa mạnh mẽ, được hỗ trợ bởi lạm phát vừa phải, đầu tư công tăng tốc và hoạt động thương mại được cải thiện.

Vẫn còn sớm để cho rằng năm 20 kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong số những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới, nhưng có cơ sở tin rằng kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực.

Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6-6,5% trong năm 20. Nhiều chuyên gia cho rằng, so với dự báo tăng trưởng của các tổ chức kinh tế uy tín trên thế giới như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) thì mục tiêu của chúng ta trong tầm tay.

Bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, cho biết, nền kinh tế Việt Nam đang bị thử thách bởi các yếu tố bên trong và bên ngoài. Để thúc đẩy tăng trưởng, Chính phủ cần hỗ trợ tổng cầu thông qua đầu tư công hiệu quả, từ đó tạo việc làm và kích thích các hoạt động kinh tế.

Đồng thời, ngoài các biện pháp hỗ trợ ngắn hạn, Chính phủ không nên bỏ qua các cải cách mang tính cơ cấu - bao gồm cả trong lĩnh vực năng lượng và ngân hàng - vì chúng là điều bắt buộc đối với tăng trưởng dài hạn và bền vững.

Một vấn đề cốt tử cho nền kinh tế Việt Nam mà Ngân hàng Thế giới nhấn mạnh là đầu tư cho nguồn nhân lực chất lượng cao. Hệ thống đại học và trường dạy nghề phải được cải cách hơn nữa để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng cao của nền kinh tế.

Bà Rebeca Grynspan, Tổng Thư ký Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) cho biết đã nghiên cứu và rất ấn tượng với những chỉ số phát triển của Việt Nam, tính tự cường của nền kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là khi nhiều quốc gia đang rơi vào tình trạng nợ nghiêm trọng hoặc có rất ít dư địa tài chính.

Việt Nam đã cho thấy tầm nhìn dài hạn, giúp nền kinh tế kiên cường trước những cú sốc, trong một thế giới khủng hoảng liên tiếp. Và Việt Nam cũng đang trên con đường đúng đắn để tận dụng được việc tái cơ cấu chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng toàn cầu, định vị mình ở điểm tốt hơn, đi lên các bậc thang cao hơn của công nghệ và giá trị gia tăng.

Tăng cường hoàn thiện và thực thi thể chế

Đưa ra nhận định cho năm 20, TS. Cấn Văn Lực cho biết: Với thế giới và cả Việt Nam dự kiến còn đối mặt rất nhiều rủi ro, thách thức hơn là cơ hội, với 6 từ mà hiện nay nhà đầu tư đang đồng thuận là "Rủi ro, bất định, thận trọng".

Tăng trưởng kinh tế thế giới năm 20 dự báo tăng khoảng 2,4-2,9% (giảm nhẹ từ mức khoảng 3% năm 2023); lạm phát toàn cầu tiếp tục giảm và lãi suất toàn cầu bắt đầu giảm, nhưng còn neo cao. Rủi ro tài chính, tiền tệ và nợ trên thế giới còn cao. Rủi ro an ninh năng lượng, an ninh lương thực, rủi ro chuỗi cung ứng còn hiện hữu…

"Những yếu tố này đều có tác động tiêu cực đến Việt Nam. Tuy nhiên, với đà phục hồi thời gian qua và nỗ lực, quyết tâm cao hơn, tôi cho rằng khả năng Việt Nam có thể tăng trưởng 6-6,5% và lạm phát tăng 3,5-4% là khả thi", TS. Cấn Văn Lực nhìn nhận.

TS. Cấn Văn Lực đưa ra 5 kiến nghị giải pháp:

Một là, cần phát huy tốt hơn các động lực tăng trưởng truyền thống (xuất khẩu, đầu tư-nhất là đầu tư tư nhân (chỉ tăng 2,7% năm 2023 là mức rất thấp so với bình thường tăng khoảng 7-8%), kích cầu tiêu dùng khi mà tiêu dùng cuối cùng chỉ tăng 3,52%-thấp hơn nhiều so với mức tăng 6-7% trong điều kiện bình thường).

Đồng thời, quan tâm khai thác tốt hơn các động lực tăng trưởng mới (như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng, liên kết vùng, nhất là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các trung tâm lớn như Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng-chiếm khoảng 32% GDP cả nước năm 2023, nhằm tăng tính lan tỏa kinh tế vùng…).

Hai là, tiếp tục duy trì các chính sách như năm 2023, theo hướng chính sách tài khóa mở rộng, có trọng tâm, trọng điểm, gắn với đẩy mạnh giải ngân đầu tư công; chính sách tiền tệ chủ động, nới lỏng thận trọng, linh hoạt; nâng cao hơn nữa hiệu quả trong điều hành, phối hợp chính sách kinh tế (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách giá cả và các chính sách vĩ mô khác) nhằm kiểm soát lạm phát, bình ổn tỉ giá, lãi suất và thị trường tài chính-tiền tệ, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô. Đồng thời, quan tâm hơn đến rủi ro hệ thống (liên thông giữa ngân hàng - chứng khoán - bảo hiểm - bất động sản).

Ba là, kiên định ổn định kinh tế vĩ mô; quyết liệt đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, nhất là các doanh nghiệp, dự án yếu kém, các tổ chức tín dụng yếu kém, xử lý nợ xấu (trong bối cảnh nợ xấu gia tăng), góp phần huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, giảm mạnh chi phí vận hành.

Bốn là, tăng cường hoàn thiện và thực thi thể chế,... góp phần tạo điều kiện cho các thị trường đất đai, bất động sản, tài chính-ngân hàng phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững và bao trùm.

Đồng thời, chú trọng hoàn thiện thể chế, khung pháp lý cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng, thị trường tín chỉ carbon, năng lượng hydrogen...

Năm là, cải thiện chất lượng tăng trưởng, trong đó tập trung nâng cao năng suất lao động (xem xét thành lập Ủy ban năng suất quốc gia), tăng khả năng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng chung; đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế nhằm phân bổ, sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn như nêu trên; cùng với đó, chất lượng và hiệu quả đầu tư công cần được chú trọng; xây dựng chiến lược và giải pháp tăng tính độc lập, tự chủ, tự cường và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế.

"Cuối cùng, cần luật hóa, cụ thể hóa cơ chế, chính sách bảo vệ cán bộ dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì cái chung, giảm tùy tiện và hình sự hóa quan hệ kinh tế, như thế mới bảo đảm mục tiêu kép: "phòng, chống tham nhũng và phát triển kinh tế-xã hội" song hành", TS. Cấn Văn Lực đề nghị.

Bảo Nam