Cựu cán bộ Văn phòng Quốc hội bị truy tố vì lừa đảo doanh nghiệp nước ngoài
TAND TP. Hà Nội đã thụ lý vụ án Đỗ Minh Tâm (SN 1977, cựu Cục phó Cục Quản trị 1 – Văn phòng Quốc hội) và Nguyễn Thế Phùng (SN 1987, trú tại phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, Hà Nội), bị VKSND TP Hà Nội truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 174, khoản 4, điểm a - BLHS.
Theo cáo trạng, Tâm và Phùng không có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong việc mua đất để xây dựng dự án và quyết định cho người khác được tại ngoại hoặc không bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, để tạo niềm tin cho các bị hại giao tiền cho mình, cả hai đã đưa ra các thông tin gian dối là bản thân có nhiều quan hệ với lãnh đạo thành phố, đưa bị hại đến thăm nơi công tác của mình… nhằm thể hiện vai trò, vị thế và khả năng của mình.
Cơ quan công tố xác định, bằng hình thức này, Tâm và Phùng đã chiếm đoạt của 2 bị hại số tiền hơn 44 tỷ đồng, trong đó có bị hại là doanh nhân người nước ngoài.
Cụ thể, ông Ph (quốc tịch Lào) là Chủ tịch Công ty AIDC (trụ sở tại Viêng Chăn, Lào). Ông Ph nhờ người quen giúp đỡ để đầu tư xây dựng tòa nhà hữu nghị Việt – Lào tại Hà Nội và đã được giới thiệu gặp Tâm, Phùng. Khi gặp ông Ph, Tâm nói Tâm có mối quan hệ với lãnh đạo thành phố Hà Nội, sau đó đưa ông Ph đến xem khu đất khoảng 10.000 m2 và 9.400 m2 gần tòa nhà Keangnam. Tâm nói sẽ giúp ông này mua được 2 mảnh đất trên, đồng thời yêu cầu ông Ph phải đưa tiền chi phí là 6% tổng chi phí thực tế và phải đưa trước 1,8 triệu USD. Tâm còn đưa ông Ph vào chỗ làm việc của mình để tạo niềm tin cho doanh nhân người Lào. Tâm nói với ông Ph rằng, Nguyễn Thế Phùng là người ký kết hợp đồng và nhận tiền thay cho Tâm.
Tin tưởng Tâm, ngày 10/11/2019, ông Ph chỉ đạo Công ty AIDC ký hợp đồng dịch vụ với Nguyễn Thế Phùng về việc tư vấn, hỗ trợ công ty AIDC xin được chấp thuận, giấy phép và liên hệ làm việc với cơ quan chức năng tại Việt Nam để đầu tư 2 dự án trên. Nội dung hợp đồng nêu rõ công việc phải thực hiện và số tiền phải giao, thời hạn thực hiện hợp đồng là 6 tháng, tính từ ngày nhận tiền.
Ông Ph giao cho nhân viên đưa tiền cho Phùng. Trước mỗi lần giao tiền, nhân viên đều gọi điện cho Tâm, rồi Tâm bảo Phùng đến địa chỉ hẹn gặp.
Từ ngày 3/11/2019 đến ngày 29/11/2019, bị hại đã giao 6 lần mỗi lần 300.000 USD, tổng là 1,8 triệu USD, tương đương hơn 41,6 tỷ đồng.
Khi nhận tiền, Phùng đều ký vào giấy biên nhận, sau đó giao lại toàn bộ cho Tâm. Tâm đưa cho Phùng số tiền 396.000 USD.
Quá thời hạn cam kết, Phùng và Tâm không thực hiện theo hợp đồng. Đến ngày 16/12/2021, Phùng mới trả lại 130.000 USD, còn chiếm đoạt 1,67 triệu USD.
Tháng 5/2022, ông Ph ủy quyền cho chị T (SN 1988, trú tại phường Cầu Diễn, quận nam Từ Liêm, Hà Nội) để tố giác hành vi của Phùng và Tâm. Quá trình điều tra, đến nay, Phùng và Tâm đã hoàn trả lại cho ông Ph toàn bộ số tiền trên. Ông Ph đã nhận đủ số tiền 1,8 triệu USD, nên không có yêu cầu bồi thường gì khác và đề nghị xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Tâm, Phùng.
Mở rộng điều tra, cơ quan công an còn phát hiện Phùng có hành vi chiếm đoạt 2,7 tỷ đồng của chị Lê Thị H (SN 1983, trú tại phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội). Thông qua các mối quan hệ, chị H quen biết và nhờ Tâm, Phùng xin tại ngoại cho 2 trường hợp bị bắt, tạm giữ về hành vi Cướp tài sản. Phùng đồng ý, hứa 3 ngày sau 2 trường hợp này sẽ được tại ngoại và yêu cầu chị H phải đưa chi phí là 3,8 tỷ đồng. Ngày 31/5/2021, Chị H đã chuyển trước cho Phùng 2,7 tỷ đồng.
Sau 3 ngày không thấy công việc theo cam kết, chị H giục thì Phùng trấn an, bảo tiếp tục chờ. Chờ đến ngày 3/6/2021 vẫn không thấy có kết quả, chị H đã yêu cầu Phùng trả lại tiền. Đến ngày 4/8/2021, Phùng trả lại 1,55 tỷ đồng, còn lại chiếm đoạt 1, tỷ đồng.
Sau đó, do chị H bị bắt trong vụ án khác, nên Phùng đã trả lại tiền cho chị H với tổng cộng là 2,45 tỷ đồng. Hiện, Phùng chưa trả cho chị H 250 triệu đồng.