Chính trị

Nhiều điểm mới "có lợi" cho phạm nhân trong xét đặc xá năm 2025

Duy Tuấn 04/03/2025 11:51

Theo Trung tướng Lê Văn Tuyến – Thứ trưởng Bộ Công an, phạm nhân được xét đặc xá phải chấp hành ít nhất 1/3 án phạt tù có thời hạn, ít nhất 14 năm với án tù chung thân....

hop-bao-dac-xa.jpg
Thứ trưởng Bộ Công an, Trung tướng Lê Văn Tuyến phát biểu tại họp báo

Sáng 4/3, tại Hà Nội, Văn phòng Chủ tịch nước tổ chức họp báo công bố Quyết định của Chủ tịch nước về đặc xá năm 2025.

Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Phạm Thanh Hà; Phó Chánh án Thường trực Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Trí Tuệ; Trung tướng Lê Văn Tuyến, Thứ trưởng Bộ Công An; Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng Việt đồng chủ trì họp báo.

Trả lời báo chí về điểm mới trong công tác đặc xá năm 2025, Trung tướng Lê Văn Tuyến – Thứ trưởng Bộ Công an cho biết, đặc xá thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Hiện có 197.8 phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ trên cả nước.

t1.jpg
Toàn cảnh họp báo.

"Căn cứ vào điều kiện theo quyết định của Chủ tịch nước, Hội đồng đặc xá trung ương sẽ giao cho các cơ quan chức năng tiến hành rà soát các trường hợp đủ điều kiện được đặc xá. Từ đó, trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định đặc xá'- Trung tướng Lê Văn Tuyến cho biết.

Về các điểm mới tại Quyết định của Chủ tịch nước về đặc xá năm 2025, ông Tuyến nhấn mạnh, về thời gian chấp hành án phạt tù, phạm nhân đủ điều kiện xét đặc xá gồm: phải chấp hành ít nhất 1/3 án phạt tù, ít nhất 14 năm với án tù chung thân. Điều kiện này giảm so với quy định được xét đặc xá năm 20 (phải chấp hành ít nhất 1/2 án phạt tù, ít nhất năm với án tù chung thân).

Ngoài ra, với các trường hợp có tình tiết ưu tiên được xét đặc xá như: thời gian chấp hành án phạt tù ít nhất phải từ 1/4 thời gian chấp hành án đối với tù có thời hạn, ít nhất 12 năm đối với án tù chung thân (đặc xá năm 20 quy định phải chấp hành 1/3 án phạt tù, ít nhất 12 năm đối với án tù chung thân).

Trung tướng Lê Văn Tuyến cũng cho biết thêm, Quyết định của Chủ tịch nước về đặc xá năm 2025 quy định, không xét đặc xá đối với các trường hợp đang chấp hành án phạt tù còn hơn 8 năm (theo khoản 1, điều 11 Luật đặc xá); trên 10 năm với trường hợp theo khoản 3, khoản 4, điều 11 Luật đặc xá. (đặc xá năm 20 quy định phải trên 6 năm với khoản 1, 8 năm với khoản 3,4).

"Đây là những điểm mới căn bản theo Quyết định của Chủ tịch nước về đặc xá năm 2025. Năm nay là năm có nhiều sự kiện lớn, trọng đại của Đảng, Nhà nước ... Việc mở rộng chính sách với người được xét đặc xá vừa là thực hiện chính sách khoan hồng, đồng thời cũng ghi nhận kết quả trong cải tạo, giáo dục của phạm nhân", Trung tướng Lê Văn Tuyến cho hay.

Thực tế cho thấy, những người được đặc xá trước đây đã chấp hành rất tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tỷ lệ tái phạm rất thấp.

Điều 11. Điều kiện của người được đề nghị đặc xá (Luật Đặc xá):

1. Người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, người bị kết án phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn được đề nghị đặc xá phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành án phạt tù khá hoặc tốt theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự;

b) Đã chấp hành án phạt tù được một thời gian do Chủ tịch nước quyết định nhưng ít nhất là một phần ba thời gian đối với trường hợp bị phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù; đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 14 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn, nếu sau khi đã được giảm xuống tù có thời hạn mà tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù.

Người bị kết án về tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội; tội phá hoại chính sách đoàn kết; tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân; tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân; người bị kết án từ 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định tại Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của Bộ luật Hình sự do cố ý hoặc người bị kết án từ 07 năm tù trở lên về tội cướp tài sản; tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; tội sản xuất trái phép chất ma túy; tội mua bán trái phép chất ma túy; tội chiếm đoạt chất ma túy của Bộ luật Hình sự đã chấp hành án phạt tù được một thời gian do Chủ tịch nước quyết định nhưng ít nhất là một phần hai thời gian đối với trường hợp bị kết án phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù; đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 17 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn, nếu sau khi đã được giảm xuống tù có thời hạn mà tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù;

c) Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, đã nộp án phí;

d) Đã thi hành xong nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với người bị kết án phạt tù về các tội phạm tham nhũng hoặc tội phạm khác do Chủ tịch nước quyết định trong mỗi lần đặc xá;

đ) Đã thi hành xong hoặc thi hành được một phần nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác nhưng do lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn thuộc trường hợp chưa có điều kiện thi hành tiếp phần còn lại theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự đối với người bị kết án phạt tù không thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản này.

Trường hợp phải thi hành nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với tài sản không thuộc sở hữu của Nhà nước thì phải được người được thi hành án đồng ý hoãn thi hành án hoặc không yêu cầu thi hành án đối với tài sản này;

e) Khi được đặc xá không làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự;

g) Không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 12 của Luật này.

2. Người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù được đề nghị đặc xá phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành án phạt tù khá hoặc tốt theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự trong thời gian chấp hành án phạt tù trước khi có quyết định tạm đình chỉ;

b) Đã có thời gian chấp hành án phạt tù quy định tại điểm b khoản 1 Điều này;

c) Các điều kiện quy định tại các điểm c, d, đ, e và g khoản 1 Điều này;

d) Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật trong thời gian được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù.

3. Người có đủ các điều kiện quy định tại các điểm a, c, d, đ, e và g khoản 1, các điểm a, c và d khoản 2 Điều này được Chủ tịch nước quyết định thời gian đã chấp hành án phạt tù ngắn hơn so với thời gian quy định tại điểm b khoản 1 Điều này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành án phạt tù, có xác nhận của trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc cơ quan có thẩm quyền khác;

b) Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; người được tặng thưởng danh hiệu Dũng sĩ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; người được tặng thưởng danh hiệu “Anh hùng Lao động”; người được tặng thưởng một trong các loại Huân chương, Huy chương Kháng chiến; cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng liệt sĩ khi còn nhỏ; con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; cha, mẹ, vợ, chồng, con của người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có công với nước”;

c) Người đang mắc bệnh hiểm nghèo, người đang ốm đau thường xuyên mà không tự phục vụ bản thân;

d) Khi phạm tội là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này;

đ) Người từ đủ 70 tuổi trở lên;

e) Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và bản thân là lao động duy nhất trong gia đình;

g) Phụ nữ có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi đang ở với mẹ trong trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ;

h) Người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về người khuyết tật; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của pháp luật về dân sự;

i) Trường hợp khác do Chủ tịch nước quyết định.

4. Người dưới 18 tuổi đang chấp hành án phạt tù có đủ điều kiện quy định tại điểm a và điểm g khoản 1 Điều này hoặc người dưới 18 tuổi đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù có đủ điều kiện quy định tại điểm g khoản 1, điểm a và điểm d khoản 2 Điều này được Chủ tịch nước quyết định thời gian đã chấp hành án phạt tù ngắn hơn so với thời gian quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.

5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Duy Tuấn