Anh hùng khuất đỉnh non xanh
Trong suốt 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cùng với nhân dân cả nước, đồng bào các dân tộc thiểu số ở dọc dãy Trường Sơn đã cùng “đất nước đứng lên” để giành lại độc lập, tự do. Trong đó, có rất nhiều người được phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Người đàn ông Mông ưu tú
“Núm ruột hồng vượt lên đá, nở hoa. Con yêu hãy lớn lên, thành người đàn ông Mông tài giỏi…”, lời ca ấy, những người mẹ Mông ở Kỳ Sơn, Nghệ An vẫn thường ru con từ thuở lọt lòng. Và cũng từ lời ca ấy, có một cậu bé đã lớn lên và trở thành một người đàn ông Mông ưu tú. Đó là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (Anh hùng LLVTND) Vừ Chông Pao (1930-20, quê ở Mường Ải, Kỳ Sơn, Nghệ An), người có vinh dự 2 lần được gặp Bác Hồ.

Vừ Chông Pao, hay còn gọi là Vừ Lầu Pó lớn lên đúng lúc quê hương bị quân Pháp chiếm đóng. Ngay từ nhỏ, ông đã sớm phải chứng kiến những đau thương, mất mát của đồng bào các dân tộc Thái, Mông, Khơ Mú. Hàng ngày, quân giặc ra sức càn quét, bắn giết bao người vô tội. Quá khiếp sợ, đồng bào dắt díu nhau trốn chạy khắp núi rừng dọc tuyến biên giới.
Năm 1948, khi mới vừa tròn 18 tuổi, ông Pao cùng anh trai của mình là Vừ Giống Chư và anh rể là Lầu Dê Tu đứng lên thành lập Đội du kích. Thời kỳ đầu, trang bị vũ khí của Đội còn rất thiếu thốn, chủ yếu là các loại súng tự chế, chông, gươm, giáo… Thế nhưng, chỉ với những vũ khí thô sơ đó, Đội đã dần trở thành điểm tựa vững chắc chống giặc, là mô hình được nhân rộng trên toàn tuyến biên giới. Năm 1950, từ Đội trưởng đội du kích, ông Pao được điều lên làm Phó, rồi Trưởng Công an xã Na Ngoi.
Ngày 2/9/1954, khi ra Hà Nội dự lễ Quốc khánh 2/9/1954, ông Pao có vinh dự được gặp Bác Hồ. Lời dặn dò của Bác, “Muốn thắng giặc, 54 dân tộc anh em phải đoàn kết. Như một bó đũa từng chiếc một thì nhỏ, nhưng kết lại thành một bó to, sẽ tạo thành một sức mạnh khổng lồ” in sâu trong tâm trí ông Pao cho đến mãi sau này.
Đến năm 1961, ông Pao được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận đầu tiên của huyện Kỳ Sơn. Một thời gian sau đó, tình hình huyện biên giới này tiếp tục trở nên phức tạp. Quân địch lại tràn sang phá hoại, câu kết và xui khiến bọn phản động đứng lên làm loạn, đốt phá bản làng, tàn sát nhân dân.
Trong số đó, phải kể đến tên Già Xay Xua, kẻ tự xưng là Châu Phà (tức Vua trời) ở vùng Mường Lống. Tên này đã ra sức dụ dỗ, lôi kéo và ép buộc đồng bào các dân tộc Kỳ Sơn “quay súng” giết hại đồng bào mình, chống lại chính quyền địa phương.
Với tư cách là Chủ tịch Ủy ban Mặt trận huyện, ngày 2/9/1963, ông Pao được ra Hà Nội dự lễ kỷ niệm ngày Quốc khánh. Sau khi dự xong lễ kỷ niệm, ngày 3/9/1963, các đại biểu dân tộc thiểu số được mời vào gặp Bác.
Trong lúc trò chuyện, Bác hỏi: “Ở Kỳ Sơn, Nghệ An có chuyện gì không?”. Ông Pao báo cáo: “Thưa Bác, ở Kỳ Sơn đang có bọn phỉ tự xưng là Châu Phà (Vua trời) dụ dỗ dân, chống lại bộ đội”. Bác lại hỏi: “Thế các chú xử lý thế nào?”. Ông Pao dõng dạc thưa : “Thưa Bác, theo cháu, ai theo giặc Châu Phà, cầm súng bắn lại nhân dân, bộ đội thì tuyên án tử hình. Ai theo Châu Phà, cầm súng, chưa gây tội, chưa bắn bộ đội và nhân dân thì phạt cải tạo từ 1-3 năm. Ai không cầm súng nhưng ủng hộ Châu Phà thì phạt cải tạo từ 6 tháng đến 1 năm…”.
Ông Pao cứ tưởng sẽ được Bác Hồ khen về cách xử lý nghiêm khắc và cứng rắn của mình, nhưng Bác lại xua tay, bảo: “Làm thế không được các chú ạ! Phải xác định kẻ thù của chúng ta là ai? Kẻ nào muốn cướp nước ta? 54 dân tộc anh em đều là đồng bào ta hết. Nhưng đồng bào ta hiện nay trình độ hiểu biết còn giới hạn nên dễ nghe theo lời kẻ xấu. Nếu các chú đều coi đồng bào là thù thì đánh cả đời không hết giặc, đất nước sẽ không bao giờ được hòa bình. Muốn thắng được Châu Phà thì phải cảm hóa được đồng bào, làm cho họ biết cái tốt, cái xấu, nói cho họ thấy sai lầm, rõ được chân tướng của kẻ thù và bè lũ cướp nước…”.

Nghe xong, ông Pao mới thấm thía, cảm nhận được nghĩa tình của Bác dành cho đồng bào các dân tộc anh em. Nhớ lời dạy của Người, khi về đến Kỳ Sơn, ông Pao đã tổ chức một cuộc họp suốt 3 ngày, truyền đạt lại lời dặn của Bác Hồ. Ông phân công cán bộ đến tận các bản làng gặp mặt các già làng trưởng bản, vận động bà con các dân tộc đoàn kết, tập trung vào những gia đình có người theo phỉ.
Kể từ đó phong trào vào rừng gọi người thân trở về lan rộng, những người theo phỉ đã lần lượt trở về làm ăn lương thiện, các đầu lĩnh của tổ chức “Vua trời” cũng lần lượt buông vũ khí đầu hàng.
Từ sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, hoạt động của phỉ tại biên giới phía Tây Nghệ An giảm đáng kể. Tuy nhiên, do có đường biên giới giáp Lào dài nhất cả nước, nên đây vẫn là địa bàn phức tạp và còn tồn tại những tốp phỉ hoạt động nhỏ, lẻ. Ông Pao lại cùng lực lượng BĐBP đã tích cực đấu tranh.
Đến năm 2008, hoạt động phỉ hoàn toàn chấm dứt trên tuyến biên giới miền Tây xứ Nghệ, các bản làng đã trở lại thanh bình. Tháng 5/2010, ông Pao được mời ra Hà Nội tham dự Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ nhất. Và, cũng tại đại hội này, ông vinh dự được đón nhận danh hiệu Anh hùng LLVTND. Âu đó cũng là phần thưởng xứng đáng cho những cống hiến của "người con ưu tú dân tộc Mông" đối với mảnh đất Kỳ Sơn.
Người anh hùng vinh dự 5 lần gặp Bác
Cũng sinh ra và lớn lên trong cảnh quê hương bị tàn phá, giác ngộ và đi theo cách mạng từ rất sớm, ông Hồ Đức Vai (tức A Vai, SN 1942, ở thôn Lê Lốc, xã Hồng Bắc, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế) được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND là người Pa Kô đầu tiên ở huyện A Lưới, Thừa Thiên - Huế, vinh dự được mang họ Hồ và được gặp Bác đến 5 lần.

“Từ năm 1961 - 1969, A Lưới là một trong những căn cứ địa cách mạng tử huyệt, chiếm giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong kháng chiến cứu nước. Thời đó, bà con dân tộc Pa Kô nói riêng và quê hương A Lưới nói chung là cái nôi của những cuộc cách mạng. Chính vì vậy, lúc bấy giờ, Mỹ liên tục đổ quân đóng tại đồn Aso (xã Đông Sơn) để mở các cuộc càn quét bằng các phương tiện vũ trang hiện đại. Chúng thả bom napan khắp núi rừng...”, anh hùng Hồ A Vai nhớ lại.
Khi đến tuổi thanh niên, A Vai tình nguyện xin vào Đội du kích địa phương. Thời gian đầu, ông được giao nhiệm vụ làm liên lạc. Một năm sau, ông chính thức được giao nhiệm vụ làm Tiểu đội trưởng.
Với tinh thần chiến đấu quả cảm, Đội du kích do ông phụ trách khiến cho quân địch ngày càng run sợ. Chỉ tính riêng trong năm 1961, A Vai đã cùng đồng đội, đồng chí của mình đánh trên 20 trận lớn nhỏ, diệt 32 tên địch, bắn bị thương 9 tên, làm sập hầm chông chết 1 tên và bị thương 50 tên khác. Lợi dụng địa hình đồi núi hiểm trở và dùng cách đánh du kích truyền thống, trong suốt năm 1962, A Vai đã nhiều lần cùng anh em đánh chặn thành công các trận càn của địch, để đồng bào yên tâm sản xuất.
Trận đánh mà A Vai nhớ nhất là vào ngày 11/7/1963. Khi đó, A Vai đang làm rẫy thì nghe tin địch càn vào xã A Ninh. Thời gian quá gấp, không đủ để chạy về huy động anh em, ông một mình vác súng chạy tắt rừng đón đầu hướng di chuyển của địch.
Sau khi đã tìm được vị trí mai phục ở núi A Sờ, thì đột nhiên ông lên cơn sốt rét. Quyết không lùi bước, khi phát hiện đội hình địch hành quân qua, ông nghiến răng dùng tiểu liên quét liên hồi. Sau loạt đạn, 3 tên địch bị tiêu diệt tại chỗ, số còn lại hốt hoảng chạy tháo thân, bỏ dở cuộc càn.
Từ những trận đánh như thế, cái tên A Vai đã lan nhanh đến khắp buôn làng người Pa Kô sinh sống, trở thành biểu tượng của lòng anh dũng trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm. Ông có tầm ảnh hưởng lớn đến tinh thần đấu tranh của đồng bào vùng cao lúc bấy giờ.

Với những chiến tích của mình, ngày /10/1965, ông Vai vinh dự được gặp Bác Hồ. “Năm 1965, tôi được địa phương chọn đi dự Đại hội Chiến sĩ Anh hùng thi đua toàn miền Nam, tổ chức tại Tây Ninh. Trong số 32 cán bộ chiến sĩ được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND, có 2 du kích người dân tộc thiểu số. Đó là tôi và anh Pi Năng Tăk, người dân tộc Răglai (tỉnh Ninh Thuận). Trong lúc trò chuyện, biết tôi là người thiểu số, Bác đã ân cần căn dặn: “Cháu đã làm cán bộ thì phải học cái chữ. Có biết đọc, biết viết mới nói tiếng Kinh rõ được, mới làm cán bộ của đồng bào, phục vụ cách mạng...””, ông Vai kể.
Thời điểm ấy, dù rất muốn được ra Bắc để học chữ, nhưng A Vai đã trả lời Bác bằng một câu rất thật thà, khiến Bác vô cùng xúc động: “Dạ thưa Bác, cháu phải trở về miền Nam để cùng đồng bào tham gia góp công sức vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, để miền Nam mau chóng được giải phóng để mời Bác vô thăm đồng bào cháu!”.
Rồi liên tục các năm sau đó, A Vai được gặp Bác thêm 4 lần nữa. Thậm chí có lầ ông còn được ăn cơm, trò chuyện thân mật cùng với Bác. Bây giờ, mặc dù ở cái tuổi xế chiều nhưng ông vẫn nhớ như in từng lời căn dặn của Bác trong lần gặp gỡ thứ 3 vào năm 1967: “Là một cán bộ, khi làm việc, tiếp xúc với nhân dân cháu phải nhớ việc gì trái dù nhỏ nhất cũng phải tránh, việc gì phải dù khó khăn đến mấy cũng phải làm cho bằng được”.
Ông Vai bảo: “Trong những năm tháng hoạt động cách mạng, tôi đã từng trải qua nhiều khó khăn, gian khổ. Mỗi trận đánh, mỗi kỷ niệm vui buồn đều in dấu trong tôi. Thế nhưng, kỷ niệm sâu đậm nhất, ngọt ngào và thiêng liêng nhất là những lần được gặp Bác Hồ. Mỗi lần gặp, Bác đều thăm hỏi, động viên, dặn dò rất kỹ. Bây giờ, khi Bác đã đi xa, nhưng dù vậy, tôi và đồng bào Pa Kô vẫn luôn khắc ghi những lời dạy của Bác, nguyện đem tất cả sức lực và trí tuệ để phục vụ quê hương, đất nước”.