Xem xét nới lỏng chính sách về nhập tịch
Tiếp tục chương trình làm việc Kỳ họp thứ 9, sáng 17/5, các đại biểu Quốc hội nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Trình bày tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung gồm 3 Điều, tập trung vào 2 chính sách lớn.

Theo đó, chính sách 1 quy định nới lỏng điều kiện liên quan đến việc nhập quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường hợp có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội, bà nội hoặc ông ngoại, bà ngoại là công dân Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài được nhập quốc tịch Việt Nam; Chính sách 2 quy định nới lỏng điều kiện liên quan đến việc trở lại quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam được trở lại quốc tịch Việt Nam.
Cụ thể, Dự thảo luật quy định một số nội dung cơ bản về sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người chưa thành niên nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ hoặc người chưa thành niên có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội, bà nội hoặc ông ngoại, bà ngoại là công dân Việt Nam.
Sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng đối với người chưa thành niên xin nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ, người chưa thành niên có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thì không cần đáp ứng điều kiện “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ” (khoản 1 Điều 19). Bỏ quy định về các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam.
Theo đó, tất cả các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì có thể được xét trở lại quốc tịch Việt Nam (khoản 1 Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam).
Sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng người xin trở lại quốc tịch Việt Nam được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 2 điều kiện tương tự trường hợp được nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài và được Chủ tịch nước cho phép (khoản 5 Điều 23).

Theo ông Ninh, việc xây dựng Luật nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, như Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị; Chỉ thị số 45- CT/TW ngày 19/5/20, Kết luận số 12-KL/TW ngày 12/8/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài khi thực hiện thủ tục nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam. Từ đó, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết, thúc đẩy chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Thẩm tra tờ trình, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng tán thành sự cần thiết ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Ủy ban Pháp luật và Tư pháp cho rằng, nội dung dự thảo Luật cơ bản phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng được đề ra tại Nghị quyết số 36-NQ/TW, Chỉ thị số 45-CT/TW và Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị song đề nghị, cần tiếp tục làm rõ để thể chế hóa đầy đủ "cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch" theo yêu cầu tại Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị để thu hút, trọng dụng các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành là người Việt Nam ở nước ngoài.

Về điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam (khoản 4 Điều 1 của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Điều 19 của Luật Quốc tịch Việt Nam), đề nghị tiếp tục nghiên cứu, làm rõ để quy định phù hợp điều kiện “có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam” đối với người xin nhập quốc tịch Việt Nam mà có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ, ông nội hoặc bà nội, ông ngoại hoặc bà ngoại là công dân Việt Nam; làm rõ thời gian thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên tại điểm đ khoản 1 Điều 19 có cần liên tục không.