Đời sống

Những nữ nhà báo mãi mãi tuổi thanh xuân

K. VY 20/06/2025 06:45

Lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam một thế kỷ qua ghi danh nhiều tên tuổi nhà báo nữ. Họ là những nhà báo đầy bản lĩnh và trí tuệ, sẵn sàng hi sinh vì lý tưởng cách mạng. Dấu ấn của họ không chỉ làm rạng rỡ lịch sử báo chí mà còn là tấm gương sáng để những nữ nhà báo trẻ hôm nay tiếp bước truyền thống vẻ vang, tiếp tục khẳng định giá trị bản thân, cống hiến cho gia đình và xã hội.

Tình yêu và sự dấn thân

Từ khi còn rất nhỏ, Dương Thị Xuân Quý đã bộc lộ năng khiếu và niềm say mê văn chương. Từ khi mới 7 tuổi, lúc đang sống với gia đình tại Thái Nguyên thuộc chiến khu Việt Bắc, Xuân Quý đã có thói quen ghi nhật ký.

Sau ngày giải phóng thủ đô, cô về Hà Nội học trường phổ thông cấp 2 Trưng Vương. Tốt nghiệp phổ thông, Xuân Quý tới Quảng Ninh, học nghề trắc địa mỏ. Sau đó, cô học ngành báo chí và được phân công về Báo Phụ nữ Việt Nam. Bảy năm công tác tại đây, nhà báo Dương Thị Xuân Quý đã viết nhiều bài báo, một số truyện ngắn và bút ký, có những tác phẩm viết ngay tại tuyến lửa khu IV.

Năm 1965, trước những tin tức từ chiến trường miền Nam sục sôi đánh Mỹ, trước tội ác của kẻ thù, với phẩm chất của một nhà báo, nhà văn giàu lòng yêu nước, Xuân Quý đã viết đơn tình nguyện vào miền Nam tham gia chiến đấu.

phong-vien-chien-truong-duong-thi-xuan-quy-o-binh-tram-20-duong-truong-son-nam-1968-anh-phuc-dung-nguyen-duong.png
Phóng viên chiến trường Dương Thị Xuân Quý ở binh trạm 20 đường Trường Sơn năm 1968 (ảnh phục chế).

Tháng 4/1968, Xuân Quý gửi con mới 16 tháng tuổi cho cha mẹ nuôi dưỡng để lên đường vào chiến trường Khu 5. Sau gần 3 tháng cùng đồng đội hành quân vượt rừng Trường Sơn với bao gian nan, vất vả và bom đạn địch, Xuân Quý vào đến cơ quan văn nghệ Trung Trung Bộ vào giữa tháng 7/1968, được phân công làm phóng viên Tạp chí Văn nghệ giải phóng Trung Trung Bộ.

Đến ngày 31/7/1968, Xuân Quý đã hoàn thành truyện ngắn "Hoa rừng" - một tác phẩm đặc sắc về cuộc chiến đấu tại chiến trường ác liệt Khu 5.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nơi chiến trường Khu 5, Xuân Quý mau chóng hòa nhập với đồng chí, đồng đội, với các nhà văn, nhà báo ở đây. Cô đã để lại dấu ấn riêng, luôn xung phong tới các vùng trọng điểm, vùng sâu, nơi nhân dân và bộ đội đang chiến đấu ác liệt với quân thù.

Mong muốn trực tiếp tham gia vào cuộc chiến đấu với vũ khí là trí tuệ và ngòi bút sắc bén là chính vẻ đẹp nhất, trách nhiệm cao nhất của đội ngũ văn nghệ sĩ, trong đó có nhà văn - nhà báo Dương Thị Xuân Quý.

Những dòng viết cuối cùng của Xuân Quý là hai bức thư của cô đề ngày 2/3 và 3/3/1969 gửi Chu Cẩm Phong về chuyến đi Xuyên Hòa, Xuyên Phú. Trong thư cô cho biết mình dự định sẽ viết bút ký "Về Xuyên Hòa" - những dự định mà cô luôn ấp ủ.

Đêm 8/3/1969, đúng ngày Quốc tế Phụ nữ, nữ nhà báo Dương Thị Xuân Quý hi sinh khi mới 28 tuổi. Cô bị giặc sát hại khi đang làm nhiệm vụ tại thôn Thi Thại, xã Xuyên Tân (nay là xã Duy Thành), huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Liệt sĩ Dương Thị Xuân Quý để lại 14 bút ký, truyện ngắn viết ở miền Bắc; 2 truyện ngắn, 2 bút ký, 3 bài thơ viết từ khi vào chiến trường Khu 5; 1 tập Nhật ký chiến trường dày 127 trang. Các tác phẩm tiêu biểu đã xuất bản của cô là: Chỗ đứng (truyện, 1968); Gương mặt thách thức (bút ký, 1969); Hoa rừng (tập truyện ký, 1970); Dương Thị Xuân Quý-Nhật ký, tác phẩm (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2007)... Năm 2007, Dương Thị Xuân Quý được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học, nghệ thuật. Tại TP. Đà Nẵng hiện nay có một con đường mang tên Dương Thị Xuân Quý ở quận Ngũ Hành Sơn. Những dòng văn, thơ, nhật ký của Dương Thị Xuân Quý để lại đã góp phần ngân rung, tạo nên bản hùng ca của quân dân ta, nhất là của phụ nữ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cho đến tận hôm nay.

Nhà văn Dương Thị Xuân Quý hi sinh đêm 8/3/1969 và mãi đến 3/8/2006 (sau hơn 37 năm), đồng đội mới tìm thấy hài cốt của chị cùng với chiếc kẹp tóc đã han gỉ có chữ "X.Quý" và hai chiếc khuy áo màu xanh lá cây.

Bông Huệ trắng của Trường Sơn bất tử

Nhà báo, liệt sĩ Phạm Thị Ngọc Huệ sinh năm 1946, là con thứ 5 trong gia đình, thông minh, học giỏi, hát hay và tràn đầy nhiệt huyết tuổi trẻ, yêu thích viết văn. Từng đỗ Đại học Tổng hợp Văn nhưng Huệ đã bỏ giảng đường đại học, tình nguyện ra chiến trường. Đơn vị chiến đấu đầu tiên của cô là binh trạm 36, Đại đội Thanh niên xung phong Ninh Bình, làm nhiệm vụ thông tuyến đường chiến lược 20 Quyết Thắng.

Khi làm nhiệm vụ ở núi rừng Trường Sơn, nhớ mẹ, nhớ các anh chị ở quê hương Ninh Bình, Huệ vẫn thường hát câu: “Lúc xa nhà tuổi còn đang niên thiếu/ con ra đi theo tiếng gọi lên đường/ tình mẹ bao la như là biển lớn/ tiếng của mẹ già gọi hoài vang nơi xa/ đồn giặc còn đây chúng con chưa về/…/lúc con về là ngày vui chiến thắng/ nếu con không về con đã trả nợ non sông”.

buc-anh-chan-dung-cua-nha-bao-liet-sy-pham-thi-ngoc-hue-sau-khi-duoc-phuc-dung-ai-nguyen-duong.png
Chân dung của nhà báo, liệt sỹ Phạm Thị Ngọc Huệ (ảnh phục chế).

Sau khi đã thông tuyến đường chiến lược 20 Quyết Thắng, nhiều đồng đội đã trở về quê hương để xây dựng tổ ấm riêng cho mình. Nhưng vì “đồn giặc còn đây chúng con chưa về” nên Ngọc Huệ đã xin ở lại để tiếp tục chiến đấu, và từ đó Ngọc Huệ được chuyển sang Ban Tuyên huấn Đoàn 559 bộ đội Trường Sơn.

Ở Đoàn 559, Phạm Thị Ngọc Huệ làm phóng viên cho báo “Trường Sơn”, cơ quan tuyên truyền của Bộ Tư lệnh binh đoàn Trường Sơn. Những tháng đầu về làm báo "Trường Sơn", Huệ được giao đi nhà in sửa lỗi từng bài viết, từng trang báo trước khi in. Cô xem đây là cách học viết báo hiệu quả và trưởng thành nhanh nhất.

Báo in xong Huệ gói gém cẩn thận, gánh bộ ra tận trạm đón xe vận tải nhờ cánh lái xe chuyển vào tuyến trong, chuyển ra tuyến ngoài tới hầu hết các binh trạm, đơn vị độc lập. Nhiều chuyến xe vượt trọng điểm Tha Mê, Seng Phan, Pác Pha Năng bị đánh bom, chiến sĩ lái xe hi sinh, bị thương, gói báo thấm máu, ám khói đạn. Nghe kể chiến sĩ công binh, giao liên, lái xe, lính cao xạ, chiến sĩ bốc vác hàng tận La Hạp, Tà Xẻng háo hức đón đọc báo "Trường Sơn", Ngọc Huệ rất hạnh phúc.

Được phân công viết tin, bài, cô không chỉ đến binh trạm lấy tài liệu mà còn xông xáo ra tận trọng điểm, gặp gỡ những gương mặt anh hùng như chiến sĩ lái xe Lê Bá Kiệm, lái máy húc Vũ Tiến Đề, Tiểu đoàn công binh 25. Cô còn tới tận trận địa Trung đoàn Phòng không 2 ở Tha Mê, La Trọng, Khe Tang tường thuật sinh động những trận đánh tiêu diệt máy bay Mỹ.

Khoảng 6 giờ sáng ngày 20/12/1968, Phạm Thị Ngọc Huệ đã anh dũng hi sinh khi cùng đơn vị vượt trọng điểm Ka Tốc, dưới đỉnh Pu Khao, cách cửa khẩu Lùm Bùm không xa. Nhà báo Ngọc Huệ hi sinh bởi trái mìn vướng do máy bay Mỹ thả đêm trước. Di vật còn lại của Huệ là cuốn sổ ghi chép các khoản tiếp nhận quân nhu, trang phục đoàn công tác và tập bản thảo viết về điển hình trạm sửa chữa xe máy Trường Sơn. Tất cả đều nhuốm máu, nhiều trang không đọc được…

Liệt sĩ Phạm Thị Ngọc Huệ đã anh dũng hi sinh cho sự nghiệp báo chí cách mạng, máu thịt cô đã hòa vào núi rừng Trường Sơn. Tấm gương chiến đấu hi sinh của liệt sĩ - nhà báo Ngọc Huệ mãi như “Bông Huệ trắng” lưu giữ sắc hương tuyệt vời cùng quê hương đất nước! Chiến tranh đã lùi xa, mặc dù đồng đội, gia đình đã nhiều lần đi tìm kiếm phần mộ của liệt sĩ, nhà báo Phạm Thị Ngọc Huệ, nhưng đến nay vẫn chưa tìm thấy.

Những nữ nhà báo hi sinh trên chiến trường, vĩnh viễn ra đi khi tuổi thanh xuân còn phơi phới, tài sản quý giá mà họ để lại là những câu chuyện kể về lòng trung thành, về tinh thần bất khuất của những nhà báo kiên trung đã xông mình vào nơi lửa đạn, ghi lại những câu chuyện xúc động nhất của thời chiến.

Dù đã hi sinh nhưng hình ảnh, tâm hồn và tinh thần của họ vẫn còn lại, vẫn sống trong lòng người thân và bạn đọc như một tấm gương sáng về lòng yêu nước, yêu nghề, về sự hi sinh và lòng dũng cảm.

K. VY