Tòa tuyên án

Hợp đồng vô hiệu, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

Trang Trần 25/06/2025 - 13:48

TAND quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng tuyên chấm dứt hợp đồng giữa STPOWER và H.V.S sau khi xác định đối tượng hợp đồng không còn, buộc bị đơn hoàn trả 2 tỷ đồng theo tỷ lệ góp vốn.

Quan hệ hợp tác phát sinh từ biên bản chưa đủ pháp lý

TAND quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng vừa tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án kinh doanh thương mại về việc "Tranh chấp yêu cầu hủy bỏ hợp đồng đặt cọc, biên bản thỏa thuận và buộc hoàn trả tiền cọc" giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần STPOWER (trụ sở tại Lô 47 đường số 02, KCN Đà Nẵng, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà) và bị đơn là Công ty cổ phần H.V.S (địa chỉ tại số 58-60 Lê Đại Hành, phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ).

Phiên tòa nhận được sự quan tâm không chỉ vì số tiền tranh chấp lên tới hàng tỷ đồng, mà còn bởi tính chất pháp lý đặc biệt liên quan đến quyền thuê lại đất trong khu công nghiệp.

Theo đơn khởi kiện và các bản trình bày trong quả trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của Công ty cổ phần STPOWER trình bày, Công ty Cổ phần STPOWER (tiền thân là Công ty Cổ phần Kỹ thuật điện Sơn Trà) đã thực hiện ký kết hợp đồng đặt cọc về việc chuyển nhượng lại Biên bản ghi nhớ số 30/2019/BBGN/IZI vào ngày 17/01/2019, giữa công ty Cổ phần KCN Hòa Cầm và công ty H.V.S với giá trị chuyển nhượng là 5 tỷ đồng. Ngày /07/2022, công ty STPOWER và công ty H.V.S ký kết "Biên bản thỏa thuận đồng sở hữu".

25-6-tacl9.jpg
Đại diện nguyên đơn (STPOWER) trình bày tại tòa.

Theo các văn bản này, tổng giá trị hợp tác được xác định là 5 tỷ đồng, mỗi bên góp 2,5 tỷ đồng. STPOWER đã thực hiện chuyển đủ số tiền trong hai đợt.

Tuy nhiên, đến tháng 12/2022, Công ty STPOWER vẫn không nhận được bất kỳ thông tin nào từ phía H.V.S về tình hình pháp lý liên quan đến quyền thuê đất. Dù đã nhiều lần gửi công văn yêu cầu phản hồi có thời hạn, nhưng H.V.S không cung cấp bất kỳ tài liệu hoặc câu trả lời nào.

Đến tháng 4/2025, STPOWER mới nhận lại được 500 triệu đồng. Cho rằng hợp đồng không thể tiếp tục vì không còn đối tượng, STPOWER khởi kiện ra Tòa án, yêu cầu chấm dứt hiệu lực hợp đồng và yêu cầu H.V.S hoàn trả lại 2 tỷ đồng còn lại.

Tại phiên tòa, đại diện STPOWER nhấn mạnh: Do Công ty Hòa Cầm và Công ty H.V.S đã chấm dứt toàn bộ thỏa thuận và biên bản ghi nhớ trước đó, nên đối tượng giao dịch không còn tồn tại. Việc Công ty H.V.S tiếp tục im lặng và không có khả năng thực hiện các điều khoản của thỏa thuận đã vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.

Hợp đồng bị chấm dứt vì không còn đối tượng

Tại phiên tòa, đại diện bị đơn cho rằng, việc chấm dứt hợp đồng là không hợp lý vì Công ty Hòa Cầm vẫn đang hoàn thiện hồ sơ pháp lý và có cam kết sẽ ưu tiên cho Công ty H.V.S thuê lại đất trong tương lai nếu đáp ứng đủ điều kiện.

Phía H.V.S khẳng định, Biên bản thỏa thuận ngày /7/2020 là văn bản thay thế hợp đồng đặt cọc và có giá trị ràng buộc các bên tiếp tục thực hiện. Trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty H.V.S từng có đơn phản tố với nội dung tương tự, đồng thời yêu cầu Công ty STPOWER trả lại bản gốc Biên bản ghi nhớ 30/2019/BBGN/IZI. Đến ngày 31/10/20, Công ty H.V.S đã rút toàn bộ yêu cầu phản tố.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ giữ quyền công tố tại phiên tòa đề nghị HĐXX không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty STPOWER. Tuy nhiên, từ chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và phần tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định rằng, biên bản ghi nhớ giữa H.V.S và Công ty Hòa Cầm là nền tảng để hai bên tiếp tục ký kết các văn bản hợp tác đã không còn hiệu lực.

Cụ thể, theo Công văn số 2318/BQL-VP của Ban Quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao TP. Đà Nẵng, cùng Công văn số 106/IZI-TH và 147/IZI-TH của Công ty Hòa Cầm, đơn vị này đến nay vẫn chưa được UBND TP. Đà Nẵng giao đất để thực hiện giai đoạn mở rộng khu công nghiệp.

Số tiền 1 tỷ đồng trước đó Công ty H.V.S chuyển cho Công ty Hòa Cầm đã được hoàn trả. Bên cạnh đó, Công ty Hòa Cầm cũng xác nhận tất cả biên bản ghi nhớ, thỏa thuận ký kết trước đó đều không còn giá trị pháp lý.

25-6-tacl10.jpg
Đại diện bị đơn trình bày

Từ các tài liệu này, HĐXX xác định đối tượng chính của hợp đồng giữa Công ty STPOWER và Công ty H.V.S chính là quyền thuê lại đất từ Công ty Hòa Cầm đã không còn tồn tại. Điều này phù hợp với quy định tại khoản 5, Điều 422, Bộ luật Dân sự 20 về việc hợp đồng chấm dứt khi đối tượng không còn. Việc Công ty Hòa Cầm cho rằng sẽ ưu tiên cho Công ty H.V.S thuê lại đất nếu đủ điều kiện không tạo thành bất kỳ nghĩa vụ ràng buộc pháp lý nào.

HĐXX cũng xem xét các vấn đề tài chính giữa hai bên, xác định cả Công ty STPOWER và Công ty H.V.S đã cùng góp vốn 2,5 tỷ đồng trong tổng giá trị hợp tác 5 tỷ đồng. Do Công ty H.V.S mới chỉ hoàn trả 500 triệu đồng, nên còn phải tiếp tục hoàn trả 2 tỷ đồng theo nguyên tắc phân chia tài sản chung quy định tại khoản 2, Điều 512, BLDS.

Từ các căn cứ nêu trên, HĐXX quyết định chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Công ty STPOWER, tuyên bố chấm dứt hiệu lực của Hợp đồng đặt cọc tháng 6/2020 và Biên bản thỏa thuận đồng sở hữu ngày /7/2020, buộc Công ty H.V.S phải hoàn trả cho Công ty STPOWER số tiền 2 tỷ đồng.

Trang Trần