Vấn đề quan tâm

Quy định phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo

Nguyễn Cúc 17/07/2025 - 14:46

Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao vừa ban hành Thông tư liên tịch số 05/2025/TTLT-BCA-BQP- VKSNDTC-TANDTC ngày 01/7/2025 quy định về phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo.

Theo đó, Thông tư liên tịch này quy định về phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện trình tự, thủ tục điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 233, khoản 2 và khoản 3 Điều 3, điểm a và điểm b khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

aic-1.jpg
TAND TP. Hà Nội mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án xảy ra tại Trung tâm Ứng cứu khẩn cấp máy tính Việt Nam (VNCERT), trong đó xét xử vắng mặt bị cáo Nguyễn Thị Thanh Nhàn (ảnh: Mạnh Hùng)

Trường hợp điều tra, truy tố xét xử vắng mặt bị can, bị cáo

Khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch nêu rõ, Cơ quan điều tra (CQĐT) áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 233, Viện kiểm sát (VKS) áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 3, Tòa án áp dụng quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự để điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo trong các trường hợp sau:

Bị can, bị cáo trốn hoặc không biết bị can, bị cáo ở đâu và việc truy nã không có kết quả. Bị can, bị cáo trốn là trường hợp bị can, bị cáo cố ý trốn tránh, vắng mặt, cơ quan tiến hành tố tụng không giao được giấy triệu tập cho bị can, bị cáo hoặc đã giao giấy triệu tập nhưng bị can, bị cáo không chấp hành, trình diện theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng, trở ngại khách quan hoặc che giấu tung tích, nơi cư trú, nơi làm việc, nơi học tập nhằm không chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Không biết bị can, bị cáo ở đâu là trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã tiến hành các hoạt động xác minh theo quy định pháp luật nhưng không xác định được bị can, bị cáo ở đâu.

Việc truy nã không có kết quả là trường hợp CQĐT đã ra quyết định truy nã bị can, bị cáo, áp dụng các biện pháp xác minh, truy bắt bị can, bị cáo nhưng đến khi hết thời hạn điều tra, hết thời hạn truy tố, hết thời hạn chuẩn bị xét xử hoặc hết thời hạn theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Thông tư liên tịch này mà bị can, bị cáo không đầu thú hoặc không bắt được bị can, bị cáo.

Bị can, bị cáo đang ở nước ngoài mà không thể triệu tập để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Bị can, bị cáo đang ở nước ngoài mà không thể triệu tập để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử là trường hợp có căn cứ xác định bị can, bị cáo đã xuất cảnh nhưng chưa có thông tin nhập cảnh và không xác định được nơi đang sinh sống, làm việc, học tập của bị can, bị cáo ở nước ngoài, không triệu tập, dẫn độ được bị can, bị cáo để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ xác định nơi đang sinh sống, làm việc, học tập của bị can, bị cáo ở nước ngoài, đã triệu tập, đã yêu cầu dẫn độ nhưng không thể đưa được bị can, bị cáo trở về Việt Nam để phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.

Điều kiện ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, bản cáo trạng và xét xử vắng mặt bị can, bị cáo

Theo khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch, CQĐT, VKS, Tòa án có thể ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, bản cáo trạng, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch này khi có đủ các điều kiện sau:

Đã thu thập đủ chứng cứ, tài liệu để làm rõ các vấn đề phải chứng minh trong vụ án theo quy định tại Điều 85 của Bộ luật Tố tụng hình sự và đủ căn cứ xác định bị can, bị cáo đã thực hiện tội phạm bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử;

Bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo vắng mặt theo quy định tại các điều 16, 291, 351 và Chương V của Bộ luật Tố tụng hình sự. Cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý, giải quyết vụ án phải thông báo về quyền nhờ người bào chữa cho người đại diện hoặc người thân thích của bị can, bị cáo để họ nhờ người bào chữa. Trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của bị can, bị cáo không nhờ người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo vắng mặt theo quy định tại Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Truy tố vắng mặt bị can

Trường hợp CQĐT kết luận điều tra đề nghị truy tố trong trường hợp vắng mặt bị can thì VKS phải tiến hành các hoạt động để xác định trường hợp và điều kiện ban hành bản cáo trạng truy tố trong trường hợp vắng mặt bị can. Các tài liệu xác định bị can vắng mặt được đưa vào hồ sơ vụ án.

Trường hợp CQĐT kết thúc điều tra theo thủ tục chung nhưng trong giai đoạn truy tố thì bị can trốn hoặc không biết bị can ở đâu, VKS yêu cầu CQĐT truy nã bị can. Nếu hết thời hạn truy nã mà việc truy nã không có kết quả thì VKS xem xét, quyết định truy tố vắng mặt bị can nếu có đủ căn cứ, điều kiện.

Trường hợp CQĐT kết luận điều tra đề nghị truy tố trong trường hợp vắng mặt bị can nhưng đến giai đoạn truy tố bị can trở về đầu thú hoặc bắt được bị can hoặc VKS xác định không đủ căn cứ, điều kiện thì VKS giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Bản cáo trạng truy tố vắng mặt bị can phải có các nội dung quy định tại Điều 3 Bộ luật Tố tụng hình sự; nêu lý do và căn cứ để truy tố vắng mặt bị can.

Xét xử vắng mặt bị cáo

Theo Thông tư liên tịch, trường hợp đã có quyết định truy tố vắng mặt bị can, Tòa án phải kiểm tra tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nếu đủ căn cứ, điều kiện quy định tại Điều 4 của Thông tư liên tịch này thì hết thời hạn chuẩn bị xét xử, Tòa án căn cứ quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự để xem xét, quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị cáo.

Trường hợp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc giai đoạn xét xử, bị can, bị cáo trở về đầu thú hoặc bắt được bị can, bị cáo thì Tòa án giải quyết theo thủ tục chung.

Trường hợp VKS quyết định việc truy tố theo thủ tục chung, nhưng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử không rõ bị can, bị cáo đang ở đâu thì Thẩm phán chủ tọa yêu cầu CQĐT ra quyết định truy nã bị can, bị cáo. Sau khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà việc truy nã không có kết quả thì CQĐT đã ra quyết định truy nã phải Thông báo cho Tòa án biết để xem xét, quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị can, bị cáo nếu đủ căn cứ, điều kiện.

Trường hợp VKS quyết định việc truy tố theo thủ tục chung, sau khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử mà bị cáo trốn thì HĐXX tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu CQĐT truy nã bị cáo. Hết thời hạn ngày kể từ ngày ra quyết định truy nã mà việc truy nã không có kết quả thì CQĐT phải thông báo cho Tòa án biết để xem xét, quyết định phục hồi vụ án và đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị can, bị cáo. nếu đủ căn cứ, điều kiện

Trường hợp đã có cáo trạng truy tố vắng mặt bị can, nhưng Tòa án xét thấy không có đủ căn cứ, điều kiện thì Tòa án quyết định trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ sung hoặc Tòa án quyết định tạm đình chỉ vụ án. Sau khi điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án và có đủ căn cứ, điều kiện thì Tòa án xem xét, quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị cáo.

Thông tư liên tịch có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2025.

Nguyễn Cúc