Tình trạng sạt lở bờ biển, bờ sông tại vùng ĐBSCL đang diễn ra nhanh hơn so với dự báo, đó là nhận định của các chuyên gia tại diễn đàn “Nâng cao năng lực cộng đồng trong phòng chống thiên tai vùng ĐBSCL” do Báo Nông nghiệp phối hợp với Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam tổ chức vào ngày 29/11, tại TP. Cần Thơ.
Chia sẻ về tình hình vùng ĐBSCL và định hướng giải pháp phòng, chống thiên tai trong thời gian tới, ông Trần Duy An, Phó trưởng phòng Quy hoạch Thủy lợi, Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam nhận định, thiên tai đã và đang đe dọa trực tiếp đến sinh hoạt và sinh kế của người dân.
Trung bình, mỗi năm ĐBSCL mất từ 300 - 500ha đất do sạt lở bờ sông, bờ biển. Tốc độ sụt lún trung bình hàng năm toàn ĐBSCL trong giai đoạn này là 1,07cm. Ngoài ra, mùa khô năm 20, xâm nhập mặn đã làm hơn 50.000 hộ dân ở ĐBSCL bị thiếu nước sinh hoạt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trồng trọt và nuôi trồng thủy sản của người dân.
Để công tác phòng chống thiên tai đạt hiệu quả, đến nay ĐBSCL đã xây dựng hệ thống thủy lợi tương đối khép kín (7 liên tỉnh, 8 nội tỉnh) phục vụ 2,5 triệu ha (chiếm 64% diện tích ĐBSCL); cơ bản đảm bảo cấp, tiêu thoát nước cho dân sinh và sản xuất nông nghiệp.
ĐBSCL đã tập trung nguồn lực giải quyết các loại hình thiên tai. Công tác chống sụt lún đất, sạt lở bờ sông, kênh rạch, xói lở bờ biển, đã có hiệu quả nhất định nhưng hệ thống chưa được đầu tư đồng bộ đặc biệt là vùng ngọt hóa. Về xâm nhập mặn, các công trình lớn được xây dựng như Cái Lớn – Cái Bé, Ninh Quới… hỗ trợ kiểm soát vùng xâm nhập mặn cho vùng trồng trọt và giúp giảm số hộ thiếu nước sinh hoạt trong mùa khô.
Tuy nhiên, nhiều hệ thống thủy lợi vẫn chưa hoàn chỉnh, thiếu khả năng trữ nước, hệ thống trạm bơm điện còn thiếu so với nhu cầu, có khoảng gần 1 triệu hộ dân có nguy cơ thiếu nước sinh hoạt, trong đó có nhiều khu vực không thể cấp nước tập trung.
Theo ông Lê Thành Chương - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chỉnh trị sông và Phòng chống thiên tai (Viện Khoa học thủy lợi miền Nam), tính đến thời điểm hiện tại, khu vực ĐBSCL có 743 điểm sạt lở bờ biển, bờ sông với tổng chiều dài 794km. Trong đó có 686 điểm sạt lở bờ sông với chiều dài 591km; 57 điểm sạt lở bờ biển với chiều dài trên 203km.
Đáng chú ý là có 327 điểm sạt lở bờ sông nguy hiểm, đặc biệt nguy hiểm và 50 điểm sạt lở bờ biển nguy hiểm, đặc biệt nguy hiểm. Trong đó, các địa phương: Cà Mau, Tiền Giang, An Giang, Đồng Tháp, Sóc Trăng có nhiều điểm bị sạt lở nhất.
Trước năm 2000, khối lượng đất xói lở và bồi lắng bằng nhau, nhưng từ thời điểm đó đến nay thì khối lượng xói lở nhiều hơn khối lượng đất bồi đắp.
Cụ thể, trong giai đoạn 2022-2023, tình trạng xói lòng sông khu vực ĐBSCL làm mất đi gần 22 triệu m3 nhưng khối lượng bồi chỉ đạt gần 5 triệu m3, tức còn âm gần 17 triệu m3.
Cũng theo ông Chương, bờ sông và bờ biển ĐBSCL hiện nay đang trong giai đoạn biến động mạnh về hình thái, ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế, xã hội và môi trường. Để bảo vệ bờ sông, bờ biển hiệu quả cần xem xét kết hợp nhiều giải pháp khác nhau, trong đó các giải pháp công trình cứng, giải pháp mềm, giải pháp kết hợp và giải pháp quản lý.
Song song đó, các địa phương cần đẩy mạnh thực hiện các giải pháp phi công trình, quy hoạch lại khu dân cư dọc theo tuyến bờ sông bờ biển bị sạt lở, trên cơ sở so sánh chi phí di dời và xây dựng công trình để quyết định cho phù hợp.
Đối với xử lý sạt lở bờ sông, cần thiết lập quy hoạch chỉnh trị tổng thể các sông lớn, sông rạch chính để đảm bảo lợi dụng tổng hơp của các ngành kinh tế có liên quan.
Hoàn chỉnh và thực thi khung pháp lý về quản lý bờ sông, bờ biển, cụ thể là việc thiết lập và thực thi hành lang bảo vệ bờ, trong đó quy định khoảng lùi hợp lý trong việc xây dựng công trình hạ tầng, quy hoạch sử dụng đất.
Bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn là giải pháp ưu tiên hàng đầu vừa thân thiện với môi trường, vừa tạo ra đa dạng sinh học cho khu vực ven biển, đồng thời mang lại sinh kế cho người dân địa phương.
Tại diễn đàn, các chuyên gia cũng cho rằng, xói lở lòng dẫn sông, sạt lở bờ biển là quá trình diễn biến phức tạp, luôn thay đổi theo cả không gian và thời gian. ĐBSCL là vùng dễ bị tổn thương trước những tác động của tự nhiên và con người. Vì vậy, để nắm bắt được quy luật diễn biến, từ đó có giải pháp xử lý ứng phó kịp thời thì công tác quan trắc giám sát diễn biến quá trình xói bồi phải được thực hiện định kỳ hằng năm.
Về định hướng phòng chống thiên tai trong thời gian tới, đại diện Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam cho biết, ĐBSCL đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ giảm 50% thiệt hại về người trong các trận lũ lớn so với giai đoạn 2011-2020, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật cơ cấu tổ chức phòng chống thiên tai, phòng chống hạn hán cho diện tích có nguy cơ ở vùng giữa vùng ven biển 530.000 ha thuộc các tiểu vùng ngọt hóa; giảm thiểu tác động xâm nhập mặn cho 600.000 ha khu vực ven biển thuộc vùng dự án thủy lợi; sắp xếp lại, di dời dân cư ra phấn đấu hoàn thành 90% việc di dời các hộ dân ra khỏi khu vực có nguy cơ cao xảy ra sạt lở.