Tiêu điểm

TAND tối cao đề xuất 4 trường hợp chuyển từ hình phạt tử hình thành tù chung thân

Nguyễn Cúc 06/08/2025 - 17:05

TAND tối cao đang chủ trì soạn thảo dự thảo Thông tư liên tịch quy định về chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân và xem xét bản án tử hình trước khi thi hành. Trong đó, dự thảo đề xuất cụ thể các trường hợp chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.

Dự thảo Thông tư gồm 3 chương, điều quy định quan hệ phối hợp trong việc rà soát người bị kết án tử hình thuộc diện được chuyển từ hình phạt tử hình thành tù chung thân.

ma-tuy-2.7.jpg
TAND TP Hà Nội tuyên 11 án tử hình trong vụ dùng xe biển xanh chở ma túy. Ảnh: Mạnh Hùng

Dự kiến các trường hợp chuyển từ hình phạt tử hình thành tù chung thân

Theo đó, dự thảo Thông tư liên tịch quy định rõ các trường hợp chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân cụ thể như sau:

Thứ nhất, người phạm tội đã bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật Hình sự, bao gồm: Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; Người đủ 75 tuổi trở lên; Người mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối.

Thứ hai, người phạm tội đã bị kết án tử hình trước ngày 01/7/2025 về một trong các tội: Tội "Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân" (Điều 109); Tội "Gián điệp" (Điều 110); Tội "Phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (Điều 114); Tội "Sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh" (Điều 194); Tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy" (Điều 250); Tội "Tham ô tài sản" (Điều 353); Tội "Nhận hối lộ" (Điều 354) và Tội "Phá hoại hòa bình gây chiến tranh xâm lược" (Điều 421).

Thứ ba, người phạm tội đã bị kết án tử hình trước ngày 01/7/2025 về tội "Sản xuất trái phép chất ma túy" (Điều 8) và tội "Mua bán trái phép chất ma túy" (Điều 521), thuộc trường hợp:

Một là, khi bị kết án tử hình về tội "Sản xuất trái phép chất ma túy" (Điều 8) Tòa án căn cứ vào khối lượng, thể tích chất ma túy được xác định trong bản án như sau: Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng 05 kilôgam đến dưới 30 kilôgam; Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng 100 gam đến dưới 03 kilôgam; Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng 300 gam đến dưới 09 kilôgam; Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích 750 mililít đến dưới 22 lít; Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các trường hợp nêu trên tại điểm này.

Hai là, khi bị kết án tử hình về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" (Điều 521) Tòa án căn cứ vào khối lượng, thể tích chất ma túy được xác định trong bản án như sau: Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 05 kilôgam đến dưới 30 kilôgam; Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 100 gam đến dưới 03 kilôgam; Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 75 kilôgam đến dưới 0 kilôgam; Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 600 kilôgam đến dưới 1.200 kilôgam; Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 0 kilôgam đến dưới 300 kilôgam; Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 300 gam đến dưới 09kilôgam; Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 750 mililít đến dưới 22 lít; Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các trường hợp nêu trên tại điểm này.

Ba là, khi bị kết án tử hình Tòa án căn cứ vào khối lượng, thể tích chất ma túy được xác định trong bản án với mức thấp nhất quy định tại khoản 5 Điều 8 hoặc khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự được sửa đổi, bổ sung tại khoản18 Điều 1 của Luật này mà người phạm tội không phải là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy hoặc không có 02 tình tiết tăng nặng trở lên. Trường hợp có 02 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 04 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Không chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân đối với người có 03 tình tiết tăng nặng trở lên.

Thứ tư, người bị kết án tử hình được Chủ tịch nước quyết định ân giảm.

Trách nhiệm phối hợp, rà soát các đối tượng bị kết án tử hình thành án chung thân.

Dự thảo đề xuất, TAND cấp tỉnh đã ra bản án sơ thẩm quyết định hình phạt tử hình đối với người bị kết án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa thi hành phải tiến hành rà soát tất cả các bản án, lập danh sách người bị kết án và thông báo cho cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an (qua Cục C11), cơ quan thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng để cho ý kiến.

Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo và danh sách người bị kết án tử hình của TAND cấp tỉnh, cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an, cơ quan thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng phải cho ý kiến bằng văn bản gửi Tòa án.

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được ý kiến của cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an, cơ quan thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng, TAND cấp tỉnh lập hồ sơ đề nghị chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân gửi về Vụ Giám đốc kiểm tra I TAND tối cao.

Hồ sơ đề nghị bao gồm: Văn bản đề nghị chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân; Bản án hình sự có hiệu lực pháp luật; Tài liệu chứng minh người bị kết án tử hình được chuyển thành hình phạt chung thân; Ý kiến của cơ quan thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an, cơ quan thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng; Các tài liệu khác có liên quan.

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị, Vụ Giám đốc kiểm tra I TAND tối cao lập tờ trình báo cáo Chánh án TAND tối cao xem xét, quyết định.

Trường hợp người chấp hành án phạt tù có quyết định ân giảm của Chủ tịch nước thì ngay khi nhận được quyết định ân giảm, Vụ Giám đốc kiểm tra I lập tờ trình báo cáo Chánh án TAND tối cao ra quyết định chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.

Thời gian người bị kết án tử hình tạm giam trước khi được chuyển thành tù chung thân được tính vào thời hạn chấp hành án phạt tù.

Dự thảo cũng nêu rõ thẩm quyền ra quyết định của Chánh án TAND tối cao. Theo đó, sau khi xem xét hồ sơ và các tài liệu kèm theo, Chánh án TAND tối cao ra một trong các quyết định sau đây:

Trường hợp, đối tượng không thuộc diện được chuyển từ hình phạt tử hình thành tù chung thân, Chánh án TAND tối cao ra quyết định không chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân, trong đó nêu rõ lý do của việc không chuyển;

Trường hợp, đối tượng thuộc diện được chuyển từ hình phạt tử hình thành tù chung thân, Chánh án TAND tối cao ra quyết định chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.

Dự thảo nêu rõ, tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của nước ta nhằm trừng trị, răn đe những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Hình phạt này liên quan trực tiếp đến tính mạng, quyền được sống của con người và là một trong những quyền cơ bản, quan trọng nhất của con người.

Vì vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam sau nhiều lần sửa đổi, hoàn thiện, về cơ bản đã quy định tương đối đầy đủ, thống nhất, cụ thể, chặt chẽ về hình phạt tử hình, việc áp dụng hình phạt tử hình thể hiện trong các văn bản như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự đã bỏ hình phạt tử hình đối với 08 tội danh, bổ sung không thi hành án tử hình đối với trường hợp “người mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối”, đặc biệt việc tách khung hình phạt “20 năm, chung thân hoặc tử hình” thành 02 khung hình phạt “20 năm hoặc chung thân” và “chung thân hoặc tử hình” tại Điều 8 và Điều 251 của Bộ luật Hình sự dẫn tới nhiều đối tượng được chuyển từ hình phạt tử hình thành tù chung thân. Để việc rà soát các đối tượng thuộc diện được chuyển từ hình phạt tử hình thành tù chung thân bảo đảm công khai, minh bạch, thống nhất cần phải quy định cụ thể trình tự, thủ tục chuyển từ hình phạt tử hình thành tù chung thân.

Bên cạnh đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự số 99/2025/QH sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 367 về thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành, trong đó giao Chánh án TAND tối cao chủ trì, phối hợp với Viện trưởng VKSND tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết nội dung này.

Để kịp thời quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự và bảo đảm đồng bộ, thống nhất giữa các luật, các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, triển khai thi hành các luật, Thường trực Tổ biên tập xây dựng đề xuất việc xây dựng Thông tư liên tịch theo trình tự, thủ tục rút gọn.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
TAND t́i cao đề xuất 4 trường hợp chuyển từ hình phạt tử hình thành tù chung thân