Vấn đề quan tâm

Vì sao Bộ Công an đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ bí mật nhà nước?

Gia Khánh 27/06/2025 08:13

Theo Bộ Công an, để khắc phục những vướng mắc, bất cập, phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy sau tinh gọn việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ bí mật nhà nước là yêu cầu khách quan và cần thiết.

bmnn(1).png

Theo Bộ Công an, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày /11/2018 tại kỳ họp thứ 6, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020. Qua 05 năm triển khai thực hiện Luật Bảo vệ bí mật nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành, công tác bảo vệ bí mật nhà nước đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; nhận thức, ý thức bảo vệ bí mật nhà nước của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động có nhiều chuyển biến tích cực, ngày càng được nâng cao; công tác thanh tra, kiểm tra được chú trọng; nhiều vụ việc lộ, mất bí mật nhà nước được phát hiện, điều tra, xử lý kịp thời...

Những kết quả nêu trên góp phần bảo vệ, giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, công tác bảo vệ bí mật nhà nước còn những tồn tại, hạn chế; một số quy định của Luật Bảo vệ bí mật nhà nước chưa phù hợp với thực tiễn, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học công nghệ và chuyển đổi số trong giai đoạn hiện nay.

Gây khó khăn cho cấp xã khi triển khai mô hình chính quyền địa phương

Ở phạm vi bí mật nhà nước, theo Bộ Công an để phù hợp với ngành, lĩnh vực sau sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy một số cơ quan ở trung ương, địa phương và phù hợp với chủ trương đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, cần sửa đổi, bổ sung phạm vi bí mật nhà nước làm cơ sở để Thủ tướng Chính phủ quyết định ban hành danh mục bí mật nhà nước bảo đảm thống nhất, chính xác, toàn diện.

Về hình thức văn bản quy định danh mục bí mật nhà nước, theo Bộ Công an, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước hiện hành quy định trình tự, thủ tục ban hành danh mục bí mật nhà nước theo trình tự, thủ tục ban hành văn bản hành chính nhưng chưa quy định rõ hình thức của văn bản này dẫn đến cách hiểu khác nhau của một số cơ quan, tổ chức trong quá trình lập danh mục. Do đó, cần quy định cụ thể hình thức của văn bản này để áp dụng thống nhất.

Trong khi đó, về chủ thể lập danh mục bí mật nhà nước đối với danh mục bí mật nhà nước của tổ chức chính trị - xã hội, theo quy định của Luật Bảo vệ bí mật nhà nước thì người đứng đầu cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội lập danh mục bí mật nhà nước của tổ chức chính trị - xã hội.

Tuy nhiên, ngày 12/4/2025, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 60-NQ/TW, trong đó đồng ý chủ trương sắp xếp, tinh gọn hợp nhất cơ quan Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; đồng thời thể chế hóa chủ trương trên tại dự thảo Hiến pháp sửa đổi (Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam).

“Do đó, cần sửa đổi, bổ sung chủ thể lập danh mục bí mật nhà nước của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội cho phù hợp với chủ trương của Đảng và quy định của Hiến pháp sửa đổi”, Bộ Công an đề xuất.

Một vướng mắc cũng được chỉ ra liên quan đến thẩm quyền sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước. Theo Bộ Công an, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình chính quyền địa phương 2 cấp tại Kết luận số 127-KL/TW ngày 28/02/2025 và Quyết định số 759/QĐ-TTg ngày 14/4/2025. Theo đó, mô hình chính quyền địa phương được tổ chức theo 2 cấp (cấp tỉnh, cấp xã), không tổ chức mô hình cấp huyện.

Tuy nhiên, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước quy định cấp xã không có thẩm quyền cho phép sao, chụp tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước; cấp phó chỉ được cho phép sao, chụp khi người đứng đầu có thẩm quyền sao, chụp ủy quyền bằng văn bản. Quy định này gây khó khăn cho cấp xã khi triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp và phát sinh thủ tục hành chính nội bộ không cần thiết trong việc ủy quyền cho phép sao, chụp; ảnh hưởng đến công tác thường xuyên của cơ quan, tổ chức.

Ngoài ra, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước chưa quy định thẩm quyền sao, chụp đối với người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu tổ chức đảng của cơ quan, đơn vị có tổ chức đảng hoạt động nên cần thiết phải bổ sung thẩm quyền của đối tượng trên.

Cũng theo Bộ Công an, để phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy ở trung ương và địa phương sau sắp xếp, tinh gọn, cần bãi bỏ một số cụm từ quy định trong Luật Bảo vệ bí mật nhà nước, như Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, tổng cục, Tòa án nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, huyện ủy, quận ủy, thành ủy, thị ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng, tổ chức xã hội…

Nhiều quy định không bảo đảm tính khả thi và tốn kém nhiều kinh phí để thực hiện

Cũng theo Bộ Công an, về soạn thảo, lưu giữ, đăng tải, truyền đưa bí mật nhà nước, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước nghiêm cấm hành vi soạn thảo, lưu giữ tài liệu có chứa nội dung bí mật nhà nước trên máy tính hoặc thiết bị khác đã kết nối hoặc đang kết nối với mạng Internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, trừ trường hợp lưu giữ bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật về cơ yếu; truyền đưa bí mật nhà nước trên phương tiện thông tin, viễn thông trái với quy định của pháp luật về cơ yếu; đăng tải bí mật nhà nước trên mạng máy tính.

Quy định này đã phát sinh nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện, vì hầu hết hiện nay các ban, bộ, ngành, địa phương sử dụng máy tính có kết nối với nhau để soạn thảo, lưu giữ bí mật nhà nước, những mạng này được kết nối, hoạt động độc lập với mạng Internet nên việc bắt buộc trang bị giải pháp cơ yếu khi soạn thảo, lưu giữ, đăng tải, truyền đưa bí mật nhà nước trên mạng máy tính không bảo đảm tính khả thi và tốn kém nhiều kinh phí để thực hiện. Do đó, theo Bộ này, ngoài giải pháp cơ yếu, cần mở rộng thêm giải pháp, biện pháp khác bảo vệ an toàn bí mật nhà nước để phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của khoa học công nghệ hiện nay.

Một vướng mắc khác liên quan thẩm quyền xác định bí mật nhà nước và độ mật. Tại Điều 10 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước quy định người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác định bí mật nhà nước và độ mật, được phép hoặc không được phép sao, chụp nên đã gây khó khăn trong quá trình áp dụng khi việc quyết định độ mật chỉ có người đứng đầu, trong khi lĩnh vực công tác đã được phân công cho cấp phó phụ trách, chịu trách nhiệm, đặc biệt khi người đứng đầu đi công tác, vắng mặt tại cơ quan sẽ dẫn đến nhiều công việc liên quan đến bí mật nhà nước không được xử lý kịp thời.

Theo Bộ Công an, quy định trên tài liệu phải thể hiện nội dung được phép hoặc không được phép sao, chụp cũng ảnh hưởng đến việc triển khai các văn bản bí mật nhà nước và hạn chế thẩm quyền của người được Luật quy định cho phép sao, chụp. Do đó, cần sửa đổi quy định này nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn; tháo gỡ vướng mắc trong giải quyết, xử lý tài liệu bí mật nhà nước.

Luật Bảo vệ bí mật nhà nước cũng quy định Thủ tướng Chính phủ là người duy nhất có thẩm quyền cho phép cung cấp, chuyển giao bí mật nhà nước độ Tuyệt mật cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tuy nhiên, trên thực tiễn áp dụng quy định này còn gặp khó khăn khi Thủ tướng đi công tác hoặc bận giải quyết, xử lý vụ việc quan trọng, cấp bách của Chính phủ. Do đó, cần mở rộng thẩm quyền cung cấp, chuyển giao bí mật nhà nước độ Tuyệt mật cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Về trách nhiệm của người đứng đầu của cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý bí mật nhà nước, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước quy định người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý bí mật nhà nước có trách nhiệm ban hành nội quy bảo vệ bí mật nhà nước trong cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai thực hiện quy định này cho thấy, cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý bí mật nhà nước gồm nhiều cấp khác nhau: cấp vụ, cục; cấp sở, ban, ngành; cấp huyện, xã, phòng, đội. Trong khi đó, những đơn vị này có tổ chức bộ máy đơn giản, số lượng công chức, viên chức, người lao động không lớn nên việc bắt buộc phải ban hành nội quy bảo vệ bí mật nhà nước là không cần thiết.

Theo Bộ Công an, để khắc phục những vướng mắc, bất cập nêu trên, phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy sau tinh gọn và kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học công nghệ, chuyển đổi số thì việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ bí mật nhà nước là yêu cầu khách quan và cần thiết.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Vì sao Ḅ Cng an đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ bí mật nh nước?