Trong quá trình phát triển đô thị cũng như trong mối quan hệ phức tạp giữa quyền lợi và nghĩa vụ của các thành phần liên quan đến di sản đô thị, công tác bảo tồn di sản đô thị tại Việt Nam ngày càng chịu nhiều thách thức. PV Báo Công lý đã có cuộc trao đổi với TS. KTS Nguyễn Quốc Tuân – Chủ nhiệm Khoa Kiến trúc công trình Trường ĐH Phương Đông; Ủy viên BCH Hội Kiến trúc sư VN, Phó Trưởng Ban Hợp tác quốc tế; Ủy viên Ủy ban Kiến trúc xanh và bền vững, Hiệp hội Kiến trúc sư châu Á xung quanh vấn đề này.
PV: Theo các đánh giá của chuyên gia trong lĩnh vực quy hoạch phát triển đô thị và bảo tồn di sản, trên phạm vị các đô thị cả nước đều tồn tại nhiều công trình di sản đô thị là tài sản quý giá với tư cách là các dấu mốc cho quá trình hình thành và phát triển đô thị. Tuy nhiên, do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan mà công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản còn “thiếu và yếu”, chưa tương xứng với các yêu cầu thực tiễn đặt ra. Ông nhận định vấn đề này thế nào?
TS. KTS Nguyễn Quốc Tuân : Theo thống kê, Việt Nam hiện có hơn 10.000 di tích cấp tỉnh, 3.610 di tích quốc gia, 128 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới; khoảng 70.000 di sản văn hóa phi vật thể được kiểm kê, 483 di sản được Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, trong đó có di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh…
Trong quỹ di sản vô cùng đồ sộ này, nhóm di sản đô thị luôn có những điểm khác biệt, độc đáo với hệ giá trị phong phú.
Di sản đô thị là di sản văn hóa có qui mô lớn nhất trong mọi loại hình di sản mà con người kiến tạo được trong lịch sử tiến hóa của nhân loại. Di sản đô thị khác biệt, với tính nhị nguyên: Vừa là sản phẩm của sáng tạo từ văn hóa loài người, vừa là môi trường bao chứa tất cả những hoạt động văn hóa ấy.
Do đó, di sản đô thị có thể là một dạng di sản phức hợp, quý giá và có sự phát triển tiếp nối diễn ra ngay trong lòng di sản. Các không gian đô thị lịch sử sống động với những sản phẩm vật chất và tinh thần hôm nay rất có thể sẽ là di sản trong tương lai.
Theo tôi, do chúng ta chưa có quy định thống nhất và được luật hóa vể đánh giá, xếp loại, công nhận Di sản đô thị, dù trong thực tế, nhóm di sản này là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa Việt Nam.
Khi chưa được pháp luật chế định các công cụ, qui trình xếp hạng, bảo vệ, đầu tư, phát huy…, di sản đô thị hoàn toàn có nguy cơ bị phá hủy, thay thế, làm mới không đúng phương pháp, dẫn tới làm sai lệch, biến dạng hoặc biến mất di sản đô thị.
Bởi quá trình phát triển đô thị lịch sử, hầu hết di sản đô thị tập trung ở vùng lõi – nơi thường có giá trị bất động sản và thương mại cao, do đó, nguy cơ di sản đô thị bị can thiệp, thay thế càng lớn.
Thực tế này đòi hỏi các cơ quan quản lý, xây dựng chính sách phải đánh giá đúng tình hình, bối cảnh để sớm xây dựng các công cụ pháp luật thích hợp.
PV: Hiện nay, di sản đô thị đang chịu cảnh lép vế so với các di tích, di sản văn hóa khác, bởi trong Luật Di sản văn hóa không đề cập đến loại hình này cũng như chưa có hành lang pháp lý để bảo vệ. Tuy nhiên, thực tế lại đòi hỏi di sản đô thị phải được đặt đúng vị trí để có những biện pháp bảo vệ trước khi chúng bị biến dạng, xuống cấp, thậm chí biến mất hoàn toàn. Đối với Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 20, tại Kỳ họp thứ 7 (tháng 5/20), Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) là 1 trong 9 dự án luật sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến. Ông có quan điểm cá nhân nào về vấn đề này không?
TS. KTS Nguyễn Quốc Tuân : Luật Di sản văn hóa 2001 (đã bổ sung sửa đổi năm 2009) hiện mới chỉ có quy định chính thức công nhận “di tích”, mà chưa có tiêu chí công nhận “di sản kiến trúc”, càng không có “di sản đô thị”. Luật cũng không quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức khoa học, các hội chuyên ngành (như Hội Quy hoạch phát triển đô thị, Hội Kiến trúc sư, Hội Khoa học Lịch sử, Hội Di sản..) trong việc giúp cơ quan quản lý nhà nước thẩm định, đánh giá, nghiên cứu và hoạch định các chính sách liên quan đến di sản. (Hiện nay tùy thuộc cấp di tích mà do Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, hoặc UBND Tỉnh quyết định công nhận di tích và giao cho Sở quản lý theo Luật Di sản văn hóa).
Như ý kiến của GS.TS. KTS Hoàng Đạo Kính đã phát biểu, “Luật Di sản văn hóa chưa đề cập tới khái niệm và thuật ngữ “di sản đô thị” hoặc “di sản kiến trúc nông thôn”. Từ đó, khi phố cổ Hà Nội được công nhận là di tích lịch sử hay làng cổ Đường Lâm được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật… đã không thể hiện đầy đủ những giá trị, tính chất sống động và đặc biệt là nhu cầu sử dụng, cải tạo nâng cấp, cải tạo thích ứng và sự tham gia vào công cuộc phát triển tiếp nối của người dân”. Như vậy, rất cần thiết mở rộng khái niệm “di tích” sang khái niệm “di sản”, cũng như vận dụng cho các quỹ di sản đô thị và cả ở khu vực nông thôn.
Với di sản đô thị, bảo tồn di sản khó có thể chỉ bảo tồn theo điểm giống như di tích, mà di sản đô thị là mảng, là vùng, là không gian đô thị.
Di sản đô thị không chỉ là những viên gạch, một ngôi nhà, những công trình lịch sử có giá trị, mà còn là không gian bao chứa và dung dưỡng cuộc sống đô thị, là một tuyến phố, một cảnh quan đô thị, là những hoạt động đô thị đã được tích lũy và làm giàu văn hóa qua nhiều thế hệ.
Việc bảo tồn thế nào để đô thị vừa gìn giữ được quỹ tài nguyên di sản có giá trị, vừa đảm bảo phát triển kinh tế, xã hội đặt ra cho chúng ta nhiều câu hỏi từ thực tiễn. Nếu Luật Di sản văn hóa không công nhận loại hình “di sản đô thị”, e rằng việc bảo tồn theo kiểu di tích sẽ tiếp tục có nhiều hạn chế với loại hình di sản này.
Tôi cho rằng, Luật Di sản Văn hóa cần quan tâm đúng mức đến di sản nói chung và một số loại hình di sản quan trọng nói riêng. Loại hình “công trình kiến trúc có giá trị” được quy định trong Luật Kiến trúc ban hành năm 2019 có nhiều yếu tố khác biệt với “di sản đô thị” bởi các qui định đánh giá, phân loại, bảo vệ, đầu tư và phát huy không thể giống nhau. Giới chuyên môn vẫn đang trông đợi Luật Di sản văn hóa (hiện đang được sửa đổi lần 2) sẽ bổ sung loại hình “di sản đô thị” quan trọng này.
PV: Là một chuyên gia trong lĩnh vực bảo tồn di sản đô thị, ông có thể chia sẻ một số kinh nghiệm của quốc tế trong bảo tồn di sản đô thị?
TS. KTS Nguyễn Quốc Tuân : Công nghệ hiện đại đã tác động rất nhiều tới các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa nói chung và bảo tồn di sản đô thị nói riêng. Sự ưu việt của công nghệ hiện đại, mà AI là một điển hình, đã được nhiều nước phát triển áp dụng, bước đầu đạt được thành công nhất định trong lĩnh vực Bảo tồn di sản kiến trúc và đô thị.
Với công nghệ AI, lĩnh vực bảo tồn di sản dường như được tiếp cận với những phương pháp thu thập, xử lý và đồng bộ dữ liệu, thông số hiện trạng chính xác, hứa hẹn đạt được mục tiêu bảo tồn hiệu quả hơn.
Tại Italia, nước có quỹ di sản khổng lồ, nhờ hệ thống thông tin di sản được số hóa, lưu giữ thống nhất, việc áp dụng công nghệ AI trở nên khả thi và đạt hiệu quả rõ rệt. Việc mô hình hóa di sản dựa trên các dữ liệu số, các thông tin gốc được thực hiện dễ dàng cho các dự án bảo tồn nhiều di sản kiến trúc và đô thị lớn. Tại Trung Quốc, Vạn Lý Trường Thành là một thách thức khó khăn đối với các kiến trúc sư và nhà sử học trong việc nghiên cứu việc bảo tồn nó. Với độ dài hơn 20.000km, một số khu vực của trường thành rất khó tiếp cận, việc kiểm tra theo cách thủ công sẽ rất mất thời gian và công sức của con người.
Gần đây, hãng Intel đã hợp tác với Quỹ Bảo tồn Di sản Văn hóa Trung Quốc sử dụng công nghệ máy bay không người lái mới nhất để thu thập hàng nghìn bức ảnh, sau đó phân tích dữ liệu bằng AI để xác định chính xác các khu vực cần phục hồi cho di sản khổng lồ này. Năm 20, toàn bộ nhà thờ Đức bà Paris đã được quét laser 3D cấu trúc trước khi bị cháy, và dữ liệu này đã và đang hỗ trợ hiệu quả trong việc tái thiết, phục hồi công trình.
Trong những năm gần đây, H-BIM - “mô hình thông tin di sản” (Heritage or historical building information modelling) là một ứng dụng mở rộng dựa trên ứng dụng phương pháp BIM trong lĩnh vực di sản, đã được triển khai rất hiệu quả tại Châu Âu. Ứng dụng này, cùng với sự hỗ trợ của AI, đã giúp thống nhất các dữ liệu di sản một cách đồng nhất, khiến việc tiếp cận, truy cập, phân tích thông tin di sản thuận tiện hơn.
Thông qua H-BIM, việc khảo sát dữ liệu và mô hình hóa các tòa nhà lịch sử trở nên dễ thực hiện hơn, khi các dữ liệu liên quan được tích hợp vào hệ thống thông tin chung, việc phân tích, nhận diện hiện trạng di sản kiến trúc đạt tính chính xác rất cao, từ đó hỗ trợ công tác quản lý và bảo tồn di sản hiệu quả. Trên nền tảng H-BIM, các thông tin công trình được mô tả dưới dạng kỹ thuật số 3D cực kỳ hiệu quả, tái hiện trung thực các đặc điểm của tòa nhà về vật liệu hình học, kiến trúc,...
Vấn đề số hóa di sản đóng vai trò quan trọng trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản kiến trúc. Việc trang bị đầy đủ dữ liệu, lưu trữ, giữ gìn trên nền tảng số về di sản trong nhiều phương diện cụ thể như kiến trúc, vật liệu, màu sắc, nội dung... là giải pháp hữu hiệu giúp cho công tác bảo tồn, tôn tạo di tích đảm bảo được yếu tố nguyên gốc, tránh sự xâm hại làm biến tướng di tích, di sản. Tại nhiều nước phát triển, tiến trình số hóa di sản đã được thực hiện từ nhiều năm nay, đã đạt đến con số 89-90% di sản được số hóa.
PV: Có một vấn đề luôn được đề cập đến trong quy hoạch đô thị lâu nay, đó chính là bài toán giữa bảo tồn di sản đô thị và phát triển đô thị: bên nào sẽ thắng hay có phương pháp nào để hai bên cùng thắng (win – win). Ông có ý kiến thế nào về vấn đề này?
TS. KTS Nguyễn Quốc Tuân : Đúng là khi nói tới hai từ “bảo tồn” và “phát triển”, nhiều người quan niệm hai phạm trù này đối lập, mâu thuẫn, thậm chí nặng nề hơn là đối kháng, triệt tiêu. Tại các nước đang phát triển, bảo tồn có thể là gánh nặng cho ngân sách, nguồn lực kinh tế, trong lúc cần phải đầu tư cho phát triển đô thị chức năng. Trong bối cảnh có ít lựa chọn kịch bản phát triển, có xu hướng tư duy rằng bảo tồn là trở lực, thậm chí xung đột với sự phát triển.
Tôi có suy nghĩ khác, nếu chúng ta có tầm nhìn dài hạn, cần xem công tác bảo tồn như một chiến lược đầu tư lâu dài và thông thái cho tương lai. Cần nhìn tổng thể, đánh giá đúng các nguồn lực di sản đô thị tạo ra, không chỉ từ nội tại của nó, mà còn từ các phối kết đô thị để tạo ra động lực phát triển tổng hòa cho đô thị. Nếu vì lý do kinh tế trước mắt, chúng ta nóng vội thay thế di sản bằng những công trình mới, thì sau này, khi đất nước giàu có hơn, liệu quay nhìn lại, có còn di sản, còn quá khứ để dành lại cho các thế hệ mai sau tự hào và trân trọng hay không?
Đối với tôi, “bảo tồn” không đối lập và cũng không mâu thuẫn với “phát triển”. Ngược lại, nếu chúng ta có cách làm tốt, thì bảo tồn di sản còn là chìa khóa để đô thị giàu có thêm về văn hóa, lịch sử, tăng sức hấp dẫn trong xây dựng hình ảnh đô thị, tăng khả năng thu hút khách du lịch và những công dân tài năng đến sinh sống, làm việc và cống hiến.
Dưới góc độ địa văn hóa – kinh tế, một đô thị tinh tế, đậm bản sắc, với những công dân ưu tú, chắc chắn sẽ tiến nhanh và tiến xa hơn trong cuộc đua phát triển và tăng trưởng khu vực và toàn cầu. Sức cạnh tranh của đô thị vì thế sẽ được nâng cao, đô thị sớm có triển vọng trở thành một thành phố - hub quốc tế.
Từ quy mô đô thị đến quy mô quốc gia, văn hóa ngày nay không chỉ là động lực cho sự phát triển kinh tế, mà đã phát triển sâu hơn, được nhìn nhận trong cả chiều cạnh không gian địa lý. Văn hóa đang tiến đến như một động lực trong phát triển các không gian kinh tế và đô thị. Trong bối cảnh này, di sản đô thị có cơ hội tham gia vào phát triển công nghiệp văn hóa – sáng tạo. Nếu chúng ta có chiến lược khai thác, phát huy tốt, sẽ đem lại hiệu quả lớn trong phát triển kinh tế – xã hội.
Tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định của TS. Martin Rama, một chuyên gia kinh tế, rằng “Nhiều thành phố ở những đất nước có thu nhập cao là một điểm hội tụ cho sáng tạo chứ không chỉ đơn thuần là sản xuất. Các thành phố lớn nhất trên thế giới là những thành phố thu hút tài năng hàng đầu. Những người này thường kỹ tính, tinh tế trong chọn lựa, và họ không thật quan tâm đến các đô thị chức năng, họ muốn sống ở những thành phố thú vị, những đô thị có tính cách. Họ tìm kiếm một khung cảnh văn hóa rực rỡ, những bảo tàng hấp dẫn với kiến trúc đẹp... Vì vậy, ở nấc thang phát triển cao, bảo tồn di sản đô thị lại chính là một tài sản kinh tế cực kỳ quan trọng…”.
PV: Quan điểm của ông thế nào về việc phát huy di sản đô thị để di sản“sống mãi”?
TS. KTS Nguyễn Quốc Tuân: Khi nói tới ứng xử với di sản, phải nói tới cặp phạm trù “bảo tồn” và “phát huy”. Bảo tồn cái gì và phát huy thế nào phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm, giá trị, bối cảnh và môi trường di sản ở mỗi địa điểm, khu vực di sản. Sức sống lâu bền của một đô thị nằm trong kí ức của những thế hệ dân cư.
Di sản đô thị không thể và không chỉ tồn tại trong hồ sơ kiểm đếm để quản lý, mà cần được hiện diện rất giản dị trong những câu chuyện của cư dân đô thị về những con sông, cây cầu, ngôi chợ cũ, tên nhà hát, tên vườn hoa, một hiệu kem, một gánh phở… Những tên phố, tên đường dù cũ hay đã đổi thay, dù còn hay mất- cũng đều là một phần của kí ức, tạo nên căn tính và giá trị nhân văn bện kết một cộng đồng.
Dưới góc độ phát triển đô thị, cần đánh giá đúng, đủ giá trị kinh tế di sản trong đánh giá tiềm năng di sản. Tôi muốn đề cập tới cụm từ “nồi cơm di sản” của PGS.TS. Nguyễn Hồng Thục. Việc phát huy giá trị di sản đô thị có nhiều hình thức khác nhau, mang lại nhiều lợi ích dưới nhiều hình thức cho nhiều nhóm đối tượng khác nhau.
Song hành với bảo tồn, cần xem di sản là một quỹ tài nguyên có thể khai thác, phát huy trong phát triển kinh tế đô thị, đặc biệt, trong phát triển du lịch văn hóa. Nếu chỉ tính giá trị kinh tế đối với lĩnh vực dễ thấy nhất là du lịch văn hóa, theo báo cáo của tạp chí FMI (Future Market) thì doanh thu toàn cầu của du lịch văn hóa năm 2023 dự kiến đạt 5.931,2 tỉ USD. Với mức tăng trưởng CARG lên tới 14,4% trong 10 năm tới, doanh thu từ du lịch văn hóa trên phạm vi toàn cầu sẽ đạt đến 22.772 tỉ USD vào năm 2033. Cụ thể hơn, đối với du lịch di sản văn hóa, với tài nguyên chủ yếu là di sản, quy mô thị trường du lịch di sản toàn cầu được định giá 556,96 tỷ USD vào năm 2021 và dự kiến sẽ mở rộng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 3,8% từ năm 2022 đến năm 2030 (theo Heritage Tourism Market Size, Share & Trends Analysis Report By Type, GVR).
Như vậy, cách chúng ta nuôi dưỡng, khai thác “nồi cơm di sản” một cách thông thái sẽ có thể tạo ra giá trị kép, vừa có kinh phí tái đầu tư cho bảo tồn, vừa bổ sung tài chính để phát triển kinh tế - xã hội.
Bối cảnh chuyển đổi số và sự phát triển của công nghệ 4.0 đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh công cụ khoa học công nghệ trong phát huy giá trị của di sản đô thị. Ứng dụng khoa học kỹ thuật mới trong bảo tồn không chỉ góp phần tạo dựng cơ sở dữ liệu nhằm bảo tồn di sản, mà còn là phương tiện hữu hiệu để quảng bá di sản đô thị tới công chúng, khách tham quan trong nước và quốc tế.
Di sản đô thị, với những thuộc tính của nó, có giá trị kinh tế lớn, có thể tạo ra nguồn lực lớn cho phát triển mà không cần phải thay thế, phá hủy. Phát huy giá trị kinh tế của di sản không phải để thay thế, phá hủy di sản, mà để khai thác và hòa nhập chúng vào dòng chảy phát triển của đô thị. Thông qua tạo ra liên hệ tương tác giữa Văn hóa, Kinh tế và Công nghệ, chúng ta sẽ có được giải pháp thông minh trong bảo tồn, hồi sinh và phát huy giá trị của di sản đô thị.
PV: Trân trọng cảm ơn ông./ .
Thực hiện nội dung & thiết kế: Tuấn Dũng