Nút thắt lớn đối với hoạt động sản xuất công nghiệp hiện tại chính là thiếu hụt nguyên liệu. Trước tình trạng này, các doanh nghiệp bắt đầu chú trọng đến tiết kiệm nguyên liệu, sản xuất tuần hoàn và nhìn nhận lại chiến lược chuỗi cung ứng.
Hiệp hội Doanh nghiệp Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam cho biết, tình trạng thiếu nguyên liệu đang diễn ra trên diện rộng, đặc biệt ở các ngành phụ thuộc lớn vào nhập khẩu. Một phần do xung đột địa chính trị và khó khăn trong khâu vận tải toàn cầu, nhưng nguyên nhân sâu xa là Việt Nam chưa phát triển được hệ sinh thái sản xuất nguyên phụ liệu đủ mạnh.
Ví dụ điển hình ở ngành nhựa và hóa chất. Theo Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA) trong quý I/2025, ngành nhựa đã phải nhập khẩu 2,28 triệu tấn chất dẻo nguyên liệu (hay còn gọi là nhựa hoặc polymer) với trị giá 3,02 tỷ USD, tăng 25,2% về lượng và tăng 20,8% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 20.
Trong đó, 70% nguyên liệu và phụ liệu đầu vào phải nhập khẩu do nguồn cung trong nước hiện nay chỉ có thể đáp ứng khoảng 1 triệu tấn. Đặc biệt, thiếu nguồn cung nguyên liệu nhựa tái sinh và công nghiệp hỗ trợ ngành nhựa chưa phát triển. Doanh nghiệp không tự chủ được nguyên liệu đầu vào; chi phí cho nguyên liệu chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu chi phí của ngành. Tình trạng này dẫn đến việc các doanh nghiệp nhựa phải duy trì tồn kho nguyên liệu lớn để đảm bảo hoạt động sản xuất, kinh doanh không bị gián đoạn.
Không riêng gì ngành nhựa, đối với ngành hoá chất vẫn phải nhập muối công nghiệp vì sản lượng và chất lượng muối sản xuất trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp hóa chất. Muối công nghiệp đòi hỏi độ tinh khiết cao, hàm lượng Natri clorua (NaCl) đạt 98% trở lên, và hàm lượng các tạp chất thấp. Trong khi đó, sản xuất muối truyền thống ở Việt Nam chủ yếu là thủ công, năng suất thấp, và chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu của các ngành công nghiệp.
Trước khó khăn về nguồn cung và giá cả nguyên liệu biến động, nhiều doanh nghiệp đã tìm cách xoay xở để không bị đứt gãy chuỗi sản xuất.
Nhiều doanh nghiệp bắt đầu chú trọng đến tiết kiệm nguyên liệu và sản xuất tuần hoàn. Một số nhà máy gỗ, nhựa đã tái sử dụng phế phẩm để làm nguyên liệu đầu vào thay thế. Ở một nhà máy sản xuất ván ép tại Đồng Nai, 80% vụn gỗ và mùn cưa được tái chế để giảm chi phí và giảm áp lực nhập khẩu.
Theo các chuyên gia, giải pháp căn cơ để giảm phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu là phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ và chủ động nguồn cung trong nước.
Ông Lê Quốc Phong - Phó Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam cho rằng, trước mắt cần quy hoạch và phát triển các vùng nguyên liệu chiến lược. Ví dụ, để phục vụ ngành dệt may thì có thể trồng bông ở Tây Nguyên, ngành giấy cần rừng nguyên liệu tại Bắc Trung Bộ... Nếu có chiến lược dài hạn, kết hợp với hạ tầng logistics chuyên biệt thì hoàn toàn có thể giảm dần phụ thuộc vào nhập khẩu.
Mặt khác, cần xây dựng các trung tâm logistics và sàn giao dịch nguyên liệu để kết nối doanh nghiệp với nhà cung cấp trong và ngoài nước, tránh tình trạng bị “làm giá” hoặc thiếu thông tin thị trường.
Khủng hoảng nguyên liệu là nguy cơ lớn, nhưng cũng là cơ hội để nền sản xuất Việt Nam tái cấu trúc. Nếu tận dụng được thời điểm này để đầu tư vào công nghiệp hỗ trợ, nâng cấp chuỗi cung ứng, đẩy mạnh liên kết giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước, Việt Nam có thể từng bước giảm phụ thuộc, nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Tuy nhiên, điều đó chỉ thành hiện thực nếu có sự chung tay giữa nhà nước - doanh nghiệp - viện nghiên cứu, cùng tầm nhìn chiến lược và hành động cụ thể.
Trong khi đó, PGS.TS. Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhận định, phải thay đổi tư duy phát triển công nghiệp từ chiều rộng sang chiều sâu, đầu tư cho công nghiệp hỗ trợ và vùng nguyên liệu trong nước. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi rõ ràng hơn, đặc biệt về thuế, đất đai và tín dụng, để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu. Bên cạnh đó, cần có các gói hỗ trợ cho chuyển đổi công nghệ sản xuất xanh, tuần hoàn để tiết kiệm nguyên liệu.
Trong dài hạn, Bộ Công Thương định hướng, cần phải có giải pháp lâu dài để phát triển một số ngành công nghiệp vật liệu cơ bản, khắc phục sự phụ thuộc vào nguồn nguyên vật liệu đầu vào nhập khẩu. Trong đó, tập trung vào việc hỗ trợ nâng cao năng lực các doanh nghiệp thông qua các giải pháp hỗ trợ về tín dụng, nguồn nhân lực, đổi mới sáng tạo và phát triển thị trường cũng như các ưu đãi về thuế và đất đai.
Ngoài việc hỗ trợ thông tin thị trường, kết nối cung cầu, Bộ Công Thương cũng sẽ tăng cường việc mở rộng các thị trường mới để giúp doanh nghiệp tránh phụ thuộc vào một thị trường ở chiều nhập và xuất khẩu, tận dụng có hiệu quả những lợi thế, cam kết trong các FTA mà Việt Nam đã tham gia.