Với 455/457 đại biểu Quốc hội có mặt biểu quyết tán thành, sáng 17/6, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp gồm 3 Điều. Theo đó, bổ sung khoản 5a vào sau khoản 5 Điều 8 như sau: “Thu thập, cập nhật, lưu giữ thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp; cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xác định chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp khi được yêu cầu”.
Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 13 như sau: “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm cá nhân theo quy định của pháp luật đối với thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm trách nhiệm quy định tại khoản 1 Điều này”.
Sửa đổi, bổ sung khoản 4 và khoản 5 Điều 16 như sau: “Kê khai giả mạo, kê khai không trung thực, kê khai không chính xác nội dung hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và nội dung hồ sơ đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp.
Kê khai khống vốn điều lệ thông qua hành vi không góp đủ số vốn điều lệ như đã đăng ký mà không thực hiện đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ theo quy định của pháp luật; cố ý định giá tài sản góp vốn không đúng giá trị”.
Luật cũng sửa đổi, bổ sung một số điểm, khoản của Điều 17 như sau: Sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 2 của điều này: “Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức, trừ trường hợp được thực hiện theo quy định của pháp luật về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”.
Sửa đổi, bổ sung điểm e khoản 2: “Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; các trường hợp khác theo quy định của Luật Phá sản, Luật Phòng, chống tham nhũng”.
Sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 3: “Đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, Luật Phòng, chống tham nhũng, trừ trường hợp được thực hiện theo quy định của pháp luật về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”.
Trường hợp nào công chức, viên chức được thành lập, góp vốn và quản lý doanh nghiệp?
Trước đó, trình bày Báo cáo việc tiếp thu, giải trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, về các quy định liên quan đến “chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp", tiếp thu ý kiến của các ĐBQH đối với các góp ý mang tính kỹ thuật về trách nhiệm thu thập, lưu giữ, cung cấp thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp và nội dung quy định giao Chính phủ hướng dẫn cụ thể về tiêu chí để xác định chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp, chế tài xử lý vi phạm khi không cung cấp thông tin theo quy định.
Đối với một số ý kiến đề nghị bổ sung điều khoản chuyển tiếp quy định về thời hạn cụ thể doanh nghiệp đã thành lập trước thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành phải bổ sung thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp, Chính phủ tiếp thu và sửa đổi theo hướng việc bổ sung thông tin về chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp được thực hiện đồng thời tại thời điểm doanh nghiệp thực hiện thủ tục đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, dự thảo Luật đã sửa đổi điểm b khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 17 Luật Doanh nghiệp theo hướng quy định đối tượng không được thành lập, góp vốn và quản lý doanh nghiệp bao gồm công chức, viên chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức, trừ trường hợp được thực hiện theo quy định của pháp luật về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.