Sau hai ngày (14, /6) xét xử đối với bị cáo Huỳnh Thị Châu (SN 1975, trú phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng) về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, ngày 17/6, TAND TP. Đà Nẵng đã quyết định trả hồ sơ để điều tra làm rõ chứng cứ mới phát sinh tại phiên tòa.
Nhận tiền cọc bất động sản, chiếm đoạt hàng chục tỷ đồng
Theo cáo trạng, khoảng đầu tháng 8/2019, ông Nguyễn Hoài N. có nhu cầu làm thủ tục nhận thừa kế 1/2 ngôi nhà số 27 Lê Vĩnh Huy (phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng) nên nhờ người tìm luật sư để giúp làm thủ tục thừa kế. Qua giới thiệu, ông N. gặp Huỳnh Thị Châu và Châu nhận giúp ông N. làm thủ tục.
Cuối tháng 8/2019, Châu yêu cầu ông N. đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền trên đất (sổ đỏ) của ngôi nhà 27 Lê Vĩnh Huy. Sau khi hai bên trao đổi thỏa thuận, ông N. đã giao sổ cho Châu và đưa trước 30 triệu đồng để Châu làm thủ tục. Đồng thời, do ông N. muốn mua lại 1/2 ngôi nhà đối với phần thừa kế của ông Nguyễn Tấn V. (SN 1954, trú TP. Quy Nhơn, Bình Định) nên đã nhờ Châu vào Quy Nhơn để đặt vấn đề.
Về phần Châu, sau khi nhận sổ đỏ từ ông Nam, Châu nói với anh Trần Đình H. (SN 1992, trú Quảng Nam) là Châu có ngôi nhà 27 Lê Vĩnh Huy đã mua của người ta rồi và nhờ anh H. giới thiệu môi giới tìm người mua, Châu gửi kèm ảnh chụp ngôi nhà này cho anh H.
Qua nhiều người môi giới trung gian khác, ngày 6/9/2019 chị Cao Thị T. L (SN 1982, trú quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng) được người dẫn đến xem nhà. Châu thỏa thuận giá mua bán ngôi nhà là 7,2 tỷ đồng, thỏa thuận xong Châu đưa cho chị L. xem bản gốc sổ đỏ của ngôi nhà trên. Châu nói, đã mua ngôi nhà này và đang chờ làm thủ tục thừa kế xong sẽ sang tên cho chị L. Sau nhiều lần nhận cọc với số tiền 2,5 tỷ đồng, Châu không thực hiện việc chuyển nhượng.
Thời điểm khởi tố bị can, Huỳnh Thị Châu đang mang thai nên Cơ quan điều tra áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú để phục vụ điều tra đối với vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản của chị L.
Trong thời gian sinh con và nuôi con nhỏ, từ cuối năm 2021 đến đầu năm 2022, Châu tiếp tục nhiều lần lừa đảo chiếm đoạt của chị Dương Thị K.D (SN 1972, trú quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng) số tiền 10,9 tỷ đồng.
Cụ thể, mặc dù không phải là chủ sử dụng đất nhưng Huỳnh Thị Châu liên tục nhiều lần thông qua việc nhận cọc tiền mua bán đất để chiếm đoạt của chị D. với số tiền nói trên.
Tổng số tiền Huỳnh Thị Châu chiếm đoạt của chị L. và chị D. là 13,4 tỷ đồng.
Có dấu hiệu đồng phạm khác trong vụ án?
Ngay khi phiên tòa bắt đầu xét xử, Huỳnh Thị Châu yêu cầu HĐXX triệu tập một số người có quyền lợi trong vụ án vắng mặt để đảm bảo quyền lợi cho bị cáo. Đặc biệt, bị cáo cũng đề nghị HĐXX thay đổi Kiểm sát viên vì cho rằng vị này không công tâm. Đối với yêu cầu thay đổi kiểm sát viên của bị cáo, HĐXX cho rằng không có cơ sở, thiếu căn cứ nên không chấp nhận.
Tại phiên tòa, ngay sau khi đại diện Viện kiểm sát công bố cáo trạng, Huỳnh Thị Châu đã bác bỏ toàn bộ nội dung cáo trạng, cho rằng cáo trạng cáo buộc bị cáo phạm tội lừa đảo là không đúng. Trong suốt quá trình xét hỏi, tất cả lời khai của bị cáo làm cho bị hại, những người có quyền và nghĩa vụ liên quan đều lắc đầu ngao ngán bởi sự “trơ tráo” của bị cáo.
Sau 2 ngày xét xử, HĐXX xét thấy cần phải điều tra làm rõ chứng cứ mới phát sinh tại phiên tòa và phải điều tra làm rõ thêm một số vấn đề khác của vụ án mà không thể bổ sung, làm rõ tại phiên tòa được. Có dấu hiệu cho rằng còn có đồng phạm khác và hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Vì vậy quyết định trả hồ sơ VKSND TP. Đà Nẵng để điều tra bổ sung.
Cụ thể, tại phiên tòa, bị cáo và luật sư cung cấp một file ghi âm kèm bản dịch thể hiện nội dung cuộc nói chuyện điện thoại giữa bị cáo với ông V. có liên quan đến việc mở thừa kế và giao dịch liên quan đến ngôi nhà 27 Lê Vĩnh Huy, TP. Đà Nẵng. Cần phải tiến hành đối chất giữa bị cáo với ông N. và ông V. liên quan đến việc mở thừa kế, giao dịch chuyển nhượng đối với tài sản trên.
Xác định lần 1 và lần 2 theo Kết luận điều tra (KLĐT) và bản cáo trạng quy kết bị cáo gian dối để chiếm đoạt tài sản của chị D. 500 triệu đồng theo Giấy nhận cọc đề ngày 28/11/2021 và 500 triệu đồng theo Giấy nhận cọc đề ngày 01/12/2021 là tranh chấp dân sự về đặt cọc hay là hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản.
KLĐT và bản cáo trạng xác định đến ngày /10/2019 bị cáo chiếm đoạt của chị L. 2,5 tỷ đồng thông qua giao dịch nhận cọc liên quan nhà đất 27 Lê Vĩnh Huy và từ ngày 5/11/2021 đến ngày 21/02/2022 chiếm đoạt của chị D. 10,9 tỷ đồng thông qua giao dịch các lô đất tại huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng và đất ở huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Ngày 5/4/2022, chị D. đã có đơn tố giác tội phạm Huỳnh Thị Châu lừa đảo chiếm đoạt và đã được Cơ quan điều tra thụ lý đơn. Tài liệu điều tra có tại hồ sơ vụ án thể hiện, từ cuối tháng 6/2022 đến ngày 29/7/2022 trong thời gian đang thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của vụ án liên quan đến chị L. thì bị cáo Châu đã nhiều lần lên TP. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng để thực hiện giao dịch nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất có diện tích 2,96m2 tại địa chỉ phường 7, TP. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng của chị Lê Thị Diệu L. với giá gần 5,5 tỷ đồng, đứng giao dịch là bị cáo nhưng người đứng tên giao nhận chuyển nhượng và đứng tên trên GCNQSDĐ lại là Nguyễn Huỳnh Kim Ng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo vẫn khai đất đó là do bị cáo đứng ra giao dịch với chị L. và người môi giới, nhưng thực chất bị cáo chỉ đứng ra giao dịch giúp cho em gái là Huỳnh Thị T. và cháu Huỳnh Kim Ng.; còn Ng. và bà T. vẫn khai và xác định đất đó là do gia đình bà T. nhờ Châu giao dịch mua giùm và không đồng ý với việc kê biên lô đất này để đảm bảo thi hành án.
Vì vậy yêu cầu điều tra bổ sung để xác định hành vi của bị cáo Châu và những người có liên quan có dấu hiệu phạm tội “Rửa tiền” theo quy định tại Điều 3 BLHS hay không?
KLĐT và bản cáo trạng đều xác định việc đặt cọc và nhận cọc giữa bị cáo và bà D. đều thông qua người môi giới là bà Nguyễn Thị Minh Ng., thậm chí có những giao dịch đặt cọc diễn ra vào thời gian bị cáo Châu mang thai sắp sinh và đang ở cử (mới sinh); thông tin về lô đất và vị trí lô đất đều do Ng. thông tin và dẫn bà D. đi xem; sau mỗi lần giao dịch thì Ng. đều được bị cáo chi tiền hoa hồng, môi giới…
Vì vậy, yêu cầu điều tra xác định Nguyễn Thị Minh Ng. có đồng phạm với bị cáo Châu trong việc đưa ra thông tin gian dối để chiếm đoạt tài sản của bà D. hay không?