Dự thảo Nghị định quy định các trường hợp khác được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đã đề xuất miễn tiền sử dụng đất đối với diện tích đất được giao trong hạn mức giao đất ở trong các trường hợp đặc thù.
Bộ Tài chính đang xây dựng dự thảo Nghị định quy định các trường hợp khác được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo khoản 2 Điều 7 Luật Đất đai năm 20. Điều 3 dự thảo quy định các nguyên tắc, trình tự, thủ tục cũng như các trường hợp cụ thể được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất nhằm tạo cơ sở pháp lý minh bạch và thống nhất trong quá trình thực hiện.
Theo đó, nguyên tắc miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất được thực hiện thống nhất theo quy định tại Điều 7 Luật Đất đai, cùng với các Điều 17 và 38 của Nghị định số 103/20/NĐ-CP ngày 30/7/20 của Chính phủ, cũng như các quy định chi tiết tại khoản 2 và 3 của Điều này.
Đối với các dự án xây dựng trụ sở làm việc của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và tổ chức quốc tế tại Việt Nam, việc miễn, giảm tiền thuê đất sẽ căn cứ theo cam kết tại điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại. Trình tự, thủ tục thực hiện việc miễn, giảm cũng được quy định rõ ràng tại các Điều 18, 19, 21, 39, 40 và 41 của Nghị định 103/20/NĐ-CP và các nội dung chi tiết trong Điều này.
Dự thảo cũng đề xuất miễn tiền sử dụng đất đối với diện tích đất được giao trong hạn mức giao đất ở trong các trường hợp đặc thù. Cụ thể, các hộ gia đình, cá nhân được giao đất ở tái định cư hoặc nằm trong các cụm, tuyến dân cư vùng ngập lũ theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ sẽ được miễn tiền sử dụng đất.
Tuy nhiên, trong vòng 10 năm kể từ ngày bàn giao đất, nhà để ở, các đối tượng này không được phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất; sau thời hạn này, nếu thực hiện chuyển nhượng thì phải nộp 50% tiền sử dụng đất tính theo thời điểm chuyển nhượng.
Ngoài ra, các hộ dân làng chài, người sống trên sông nước, đầm phá được bố trí định cư tại khu, điểm tái định cư theo quy hoạch, kế hoạch và dự án đã được phê duyệt cũng thuộc diện được miễn tiền sử dụng đất.
Về miễn, giảm tiền thuê đất, dự thảo quy định những trường hợp được miễn hoàn toàn trong cả thời hạn thuê. Đó là các cơ sở sử dụng đất để xây dựng trụ sở cho ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng phát triển Việt Nam, các quỹ tài chính ngoài ngân sách hoạt động không vì lợi nhuận, điểm Bưu điện – Văn hóa xã, các cơ sở nghiên cứu khoa học của doanh nghiệp khoa học và công nghệ (bao gồm phòng thí nghiệm, cơ sở ươm tạo công nghệ, cơ sở thực nghiệm, sản xuất thử nghiệm), cũng như các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ số như Viện, Trung tâm đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và phát triển công nghệ số, dự án sản xuất sản phẩm công nghệ số trọng điểm, sản phẩm phần mềm, chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, khu công nghệ số tập trung và Trung tâm đổi mới sáng tạo Quốc gia.
Các diện tích nhà, đất phục vụ đối ngoại, ngoại giao cũng được miễn tiền thuê đất nếu giao cho đơn vị có nhiệm vụ trực tiếp quản lý và sử dụng theo hình thức hỗ tương hoặc theo chính sách ưu đãi đặc biệt của Nhà nước.
Đối với doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, việc miễn, giảm tiền thuê đất sẽ thực hiện theo chính sách ưu đãi do Chính phủ ban hành nhằm khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực này.
Trường hợp người sử dụng đất thuê đất hàng năm để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối mà gặp thiên tai, hỏa hoạn thì cũng được xem xét miễn, giảm tiền thuê đất tùy theo mức độ thiệt hại.
Nếu thiệt hại dưới 40% sản lượng, được giảm tiền thuê đất tương ứng theo tỷ lệ thiệt hại; nếu thiệt hại từ 40% trở lên thì được miễn tiền thuê đất cho năm đó. Tỷ lệ thiệt hại được xác định dựa trên sản lượng thu hoạch trong điều kiện bình thường của vụ gần nhất trước đó và do cơ quan có thẩm quyền xác nhận.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp thuê đất hàng năm để sản xuất kinh doanh mà phải tạm ngừng hoạt động do thiên tai, hỏa hoạn hoặc các nguyên nhân bất khả kháng theo quy định tại Điều 31 Nghị định 102/20/NĐ-CP, cũng được xem xét giảm 50% tiền thuê đất tương ứng với thời gian ngừng hoạt động.
Thời gian và mức độ giảm sẽ được xác định dựa trên hồ sơ đề nghị của người sử dụng đất và qua kiểm tra thực tế của cơ quan thuế phối hợp cùng các cơ quan liên quan. Toàn bộ quy trình xét miễn, giảm tiền thuê đất được thực hiện theo đúng thẩm quyền tại Điều 41 Nghị định 103/20/NĐ-CP.